NGU~ UA^?N

nmchau
Site Admin
Posts: 1654
Joined: 01 Oct 2007 17:02
Contact:

NGU~ UA^?N

Postby nmchau » 18 Jun 2006 08:19

NGŨ UẨN

Đỗ Hồng Ngọc (trích từ NGHĨ TỪ TRÁI TIM)

Ngũ uẩn là gì?

Nhất Hạnh trong 'Trái Tim Hiểu Biết' không dịch, để nguyên 'ngũ uẩn', chỉ nói đó là Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Đoàn Trung Còn dịch ngũ uẩn là 'năm uẩn' cũng như không, nhưng có chú thích: đó là năm món kết tập làm thân người, thân chúng sanh, đó là Sắc (Forme), Thọ (Sensation), Tưởng (Perception), Hành (Impressions, Concepts), Thức (Conscience).
Suzuki viết 'Khái niệm về uẩn (skandha)' có vẻ mơ hồ và bất xác. Năm uẩn (các tố chất, các thành tố) là sắc chất (rùpam), cảm thọ hay tri giác, giác năng (vedanà), suy tưởng (samjnà), tập thành hay sự tác thành (samskarà), và thức (vijnàna). Uẩn thứ nhất là thế giới vật chất hay chất thể của mọi vật, bốn uẩn còn lại thuộc về tâm giới. Riêng về samskarà (hành) , ông nói là từ ngữ rất khúc mắc, không có từ tương đương trong tiếng Anh, chỉ cho ta cái tạo nên hình chất, là nguyên lý tạo hình. Còn thức (vijbàba) là ý thức hoạt động của tâm như thấy nghe ngửi nếm sờ mó nghĩ tưởng.
Thích Tâm Thiện dịch uẩn là hợp thể. Bản tiếng Anh dịch là aggreagates, bản tiếng Pháp không dịch, để nguyên tiếng Phạn: skandhas.
Từ điển Đào Duy Anh ghi: 'uẩn' trong 'sợi gai kết thành bó'.
Tóm lại, uẩn là cái gì đó hợp lại, kết tập lại thành một bó, một cục, một nhúm, ... một con người!
Phật không nhìn con người như là một cái 'ngã' có tự tính riêng biệt, mà chỉ là sự tụ hợp, kết tập bởi nhiều thành tố do duyên sinh. Có kết tập thì có tan rã. Tan rã cũng không phải là mất đi mà lại trở về làm thành tố để tạo ra những tổ hợp khác, kết tập khác, cục khác, bó khác, nhúm khác... Những cục, bó, kết tập, tổ hợp kia cũng không tự có mà do tương tác, tương sinh, tương khắc, phối hợp mà thành. Những 'gặp gỡ' có vẻ như không rõ do đâu có thể gọi là 'duyên' đó (Người đâu gặp gỡ làm chi! Trăm năm biết có duyên gì hay không? -Kiều, Nguyễn Du), thực ra có thể là do những trường, những lực hút đẫy lẫn nhau, Thúy Kiều phải có cái 'gene' gì đó mới 'kết' với Đạm Tiên và Kim Trọng, với 15 năm đoạn trường lưu lạc.
Trong môi trường nào đó, sinh vật đó nẩy sinh, kết tập từ những thành tố có khi vay mượn chỗ này một chút, chỗ kia một chút, như những vi khuẩn, những siêu vi, phải gắn vào một tế bào nào đó để sinh sôi nẩy nở. Môi trường không thuận lợi thì vi khuẩn không phát triển được. Nấm mốc mọc tùm lum đã triệt hạ vi khuẩn, nhờ đó mà Flemming tìm ra thuốc kháng sinh Penicillin. Nhưng rồi lại có hiện tượng thích nghi, đề kháng, tác động qua lại, tổ hợp qua lại, tạo ra cái mới.
Vậy 'uẩn' là những thành tố, bó lại, hợp lại mà thành cái này hay cái kia. Đã là thành tố thì không phải là toàn thể. Con người cũng vậy, cũng gồm những thành tố Sắc Thọ Tưởng Hành Thức kết tập lại, mà chỉ riêng sắc, lại đã do những nguyên tử C, H, O, N... cùng với những kim loại hợp thành, nên con người không thể có tự ngã, có tự tánh riêng biệt để 'diệu võ dương oai'. Nỗi khổ của con người là do cái ngã của mỗi cá nhân lớn quá. Cái gì cũng của tôi, vì tôi, cho tôi..., đó là thường hằng, vĩnh viễn. Nên khi mất đi, tan biến đi thì khổ não sầu bi. Ngay cả những người tu hành muốn thoát ngã có thể lại nặng ngã hơn như ôm lấy chùa của ta, cốc của ta, sau khi tưởng đã thoát khỏi nhà của ta!
Bản năng được thiết lập từ thuở sơ sinh, rồi khám phá dần cơ thể, rồi tích lũy dần dần tạo thành hình ảnh của cái tôi 'self image', rồi cá tính ngày càng củng cố vững chắc. Sắm cái vai lâu ngày quá mọc ra các Ềtính cáchỂ không lay chuyển nổi, tưởng cái đó là mình, hành xử theo cái đó và cứ thế, bám víu luẩn quẩn. Đây đã là nguồn gốc của khổ đau vì thay đổi, mất mát, tan rã.
Chính Phật cũng trải qua nhiều cái 'ngã' như vậy, cái ngã là thái tử, là con, là chồng, là cha, là vua tương lai, là người trí thức... rồi bỏ hết, trốn chạy lên rừng, tu khổ hạnh, ép xác, mong thoát khổ, sau rồi thấy vô lý, không những không thoát khổ mà còn khổ đau hơn, triệt tiêu cả trí tuệ, mới bỏ đi nơi khác, tự mình tìm kiếm một con đường riêng cho mình, tự tìm ra phương thuốc chữa cho mình.
Có tài liệu nói ngoài 60 tuổi Phật mới thuyết Tâm Kinh. Hơn hai mươi năm trước đó, Phật thuyết giảng những cách 'chăn' tâm, để giúp định tâm từ những nguyên tắc, phương pháp rất chặt chẽ. Đây là những bước cơ bản, cần thiết nhưng chưa đủ. Thế nhưng vẫn có người bám chặt lấy như bám mãi cái bè khi đã qua sông. Không chỉ chấp 'ngã', chấp 'tướng', người ta còn chấp 'pháp', ôm lấy và ngủ quên trên đó! Vậy là không thoát nổi! Bỏ cái này để vướng cái kia! Đã đến lúc phải ra tay 'đập phá' một lần nữa, may ra... Cái Chân Như nó có sẵn đó, nó vậy đó, không cần can thiệp, không cần khổ đau. Và ngài cười một mình. Thành ra cứ thấy Phật tủm tỉm cười một mình hoài. Rõ ràng thứ 'thuốc' ông tìm ra đã chữa được bệnh sợ hãi (sợ chết, sợ khổ, sợ bệnh, sợ phân ly, sợ mất mát...), bệnh tham lam, sân hận, si mê...
Nếu Phật không đi tu, có lẽ ông sẽ trở thành vua, cũng sẽ có tam cung lục viện, sanh ra vài chục hoàng tử công chúa tranh giành địa vị, sát hại lẫn nhau. Có lẽ ông cũng lo cho binh hùng tướng mạnh và đi... đánh Nam dẹp Bắc, bành trướng thế lực, đất đai, dẫn đến giết người, cướp của các lân bang... Tóm lại, ông là Phật nên ông chẳng những được giải thoát những nỗi khổ đau đó mà còn ung dung tự tại, tủm tỉm cười một mình. Không chỉ vậy, ông còn muốn chia sẻ, giúp đỡ cho người khác.

Tại sao NGỦ UẨN chỉ có 5 mà không phải là 6, 7?

Đông phương có đặc điểm lạ, gì cũng 'ngũ', năm mà thôi. Hình như con số này có một ý nghĩa tượng trưng nào đó. Ta có ngũ quan là tai mắt mũi lưỡi da gắn bó hỗ trợ nhau, lại có ngũ tạng là tâm can tì phế thận là năm cơ quan quan trọng của cơ thể, không thể tách rời được mà gắn bó với nhau rất mật thiết, không thể bỏ cái này mà không hại đến cái kia. Rồi có ngũ hành là Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ tương sinh tương khắc. Rồi ngũ sắc, ngũ âm, ngũ vị, ngũ quả... và cửu ngũ!
Cửu ngũ là hào dương, đứng hàng thứ năm từ dưới lên, hào chính của các quẻ trong kinh Dịch. 'Lên ngôi cửu ngũ' là lên ngôi vua. Kinh Dịch ra đời trước Phật nhiều ngàn năm, có lẽ Phật cũng có chịu ảnh hưởng. 'Ngũ' do vậy chỉ có nghĩa là cái cao nhất, quan trọng nhất, không cần nói gì thêm, bởi chỉ có ý nghĩa tượng trưng, không nhất thiết là '5' đếm được, đo được.
Điều quan trọng là ý nghĩa 'nhiều thành tố hợp lại' tạo ra cái 'ngã' của ta - không có thành tố nào tự có, tự quyết định mà tương tác tương hợp - do duyên mà sinh, hết duyên thì rã - nhưng rã không có nghĩa mất đi mà lại trở thành các thành tố cho một duyên khác hình thành. Lá cây rụng xuống để tan rã thành phân lại nuôi cây, lại thêm lá mới - và cứ thế, nó vậy, không cần can thiệp, không cần khổ đau. Các hồng cầu già tự hủy, các thành tố giữ lại trong lá lách để sản sinh các hồng cầu khác, thay dòng máu mới. Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức là cách phân tích ở thời Phật, bao hàm hai phần chính là Thân (Sắc) và Tâm (Thọ Tưởng Hành Thức).

Sắc

Không phải vô lý mà đặt Sắc trước các uẩn khác. Không có sắc thì không có các uẩn khác. Thật là phi lý khi coi thường sắc uẩn, coi thường thân xác, coi nó là nhơ bẩn, xấu xa, tội lỗi. Nhiều nhà tu dậy người ta khinh bỉ xác thân, coi xác thân như cái bị thịt, bọc da, coi cơ thể là nhơ nhớp thối tha, dòi bọ. Thực ra, mục đích cũng là nhằm để 'triệt tiêu' cái ngã quá bám víu vào thân xác đến nỗi như anh chàng Narcis, say mê cái vẻ đẹp của bản thân mình - say mê, tự hào về xác thân quá đáng thì sẽ khổ đau vì bất như ý, vì già nua, vì bệnh hoạn, vì các vòng số 1, 2, 3 thay đổi, vì làn da, mái tóc của riêng mình - rồi suy bì, ganh tị, ghen ghét, giận hờn dẫn tới buồn phiền, đau khổ thêm. 'Chiều hôm thức dậy, ngồi ôm tóc dài, chập chờn lau trắng trong tay' (Trịnh Công Sơn)
Coi thường thân xác là một sai lầm lớn. Phật đã từng sai lầm như vậy trong một thời gian dài, lúc mới tu- khi theo con đường khổ hạnh, tự đầy đọa, khinh bỉ xác thân! Không có Sắc uẩn thì cũng không thể có Thọ uẩn. Cảm xúc là từ những giác quan: mắt nhìn, tai nghe, mũi ngửi, lưỡi nếm, và da xúc chạm. Tiêu diệt Sắc để tiêu diệt Thọ là tự hủy diệt. Phật chắc chắn không dạy như thế. Chắc chắn ngài tìm ra niềm vui trên thân thể khỏe mạnh, minh mẫn, đẹp trai của mình - mà có kẻ cho là có 32 tướng tốt. Nhưng Phật chắc đã cười vì có 32 tướng tốt mà ngu si, mê muội thì cũng như không!
Chắc chắn là Phật rất chăm chút thân xác mình, chẳng những chăm chút mà còn biết nghe ngóng từng bộ phận, từng cách thức hoạt động của cơ thể. Không chỉ nghe ngóng mà còn ân cần nhỏ to với nó, ngạc nhiên vì nó, cám ơn nó. Hình như người có nói: hãy từ bi với bản thân mình rồi mới có thể từ bi với kẻ khác. Với bản thân mình mà cứ đòi tiêu diệt, hủy diệt thì còn mong cứu vớt ai? Sau một thời gian tu sai lầm, khổ hạnh, ngài chợt khám phá lại thân xác mình. Khi ngứa thì ngài gãi, và không như chúng ta vừa gãi vừa lo tính toán chuyện làm ăn, chuyện 'tiêu diệt' địch thủ, thống nhất giang hồ, muôn năm trường trị..., ngài vừa gãi vừa hít thở vừa tủm tỉm cười: cũng chẳng khoái ru? Cũng vậy, khi đói ngài sẽ nghe cái đói, ân cần với nó và sẽ ăn, có gì ăn nấy, không đòi cao lương mỹ vị, khi ăn thì chậm rãi, nhai nghiền kỹ lưỡng từng miếng một và nhờ đó, các thức ăn, dù là thức gì, cũng rã tan thành glucid, protid, lipid, muối khoáng và vitamin rồi hấp thu, rồi thải bã. Ở đây cũng lại thấy các uẩn. Các nhóm thức ăn cũng là các uẩn, cũng có thể gọi là 'ngũ uẩn': glucid, protid, lipid, muối khoáng, vitamin, kết tập lại dưới dạng thịt cá, trứng, sữa, đậu, mì rau củ... rồi rã tan ra trong hệ tiêu hóa để cung cấp cho cơ thể những chất cần thiết và năng lượng cho sự sống. Đạm động vật cũng như đạm thực vật. Béo động vật cũng như béo thực vật. Có điều, đạm và béo thực vật tốt cho sức khỏe hơn, không làm tăng cholesterol, không gây bệnh xơ vữa động mạch, cao huyết áp, bệnh tim.... Phật biết chọn thức ăn tốt cho cơ thể mình, làm cho cơ thể khỏe mạnh, cường tráng, tâm hồn lại nhẹ nhàng thanh thản vì không phải đi săn thú, không phải nhậu nhẹt trác táng để sau một đêm vui là những ngày khổ đau. Nhờ ăn vừa phải, ăn nhiều thực vật, đi bộ, thở bụng nên chắc không bị tiểu đường, bị bón, bị trĩ, bị gút... như phần đông chúng ta ngày nay.
Dĩ nhiên là Phật cũng tiêu hóa thức ăn, cũng thải chất bã. Nhưng khi đi vệ sinh chắc ngài không vừa đọc báo vừa theo dõi tình hình thế giới qua ti vi hay radio, vừa trả lời điện thoại, vừa suy tính hoàn thành kế hoạch vượt mức chỉ tiêu, mà ngài vừa hít thở, vừa theo dõi cơn đau bụng, cách vận hành của ruột già, cách mở cơ vòng và ngài mỉm cười thoải mái.
Chăm chút sắc uẩn của mình thì trước hết phải chăm sóc chuyện thở! Sáu giờ ta mới phải ăn một lần nhưng mỗi phút thì phải thở mười lần, hai mươi lần, dù muốn dù không. Bài học đầu tiên ngài dạy chính là 'Quán niệm hơi thở', chìa khóa của mọi chìa khóa. Đâu có như ta bây giờ, biết vậy mà vẫn cứ bị cuốn hút đến... quên cả thở! Dĩ nhiên là ngài không quên vận động, tập thể dục với các tư thế giúp làm giãn cơ của yoga. Ngài biết lắng nghe các khớp xương cử động. Ngài khen ngợi nó, vui với nó khi nó kêu rắc rắc, rốp rốp, vỗ về khi nó đau. Thỉnh thoảng mà có bị đau lưng, cảm gió, ngài lại thưởng thức nồi lá xông, thưởng thức tô cháo hành giải cảm. Ngài cũng ngủ. Ngủ dễ hơn chúng ta. Ngủ say hơn chúng ta vì không có gì để lo nghĩ. Không sợ kẻ trộm vào ăn cắp vì không có gì để mất. Ngài nằm nghiêng bên phải khi ngủ để gan không đè lên dạ dày để dạ dày dễ làm việc. Tóm lại, đối với cái sắc uẩn tức xác thân, Phật luôn quan tâm chăm sóc, ân cần với thân xác mình, ngài luôn luôn 'chánh niệm' trong từng hoạt động của xác thân.
Đây cũng chính là bí quyết. Nhờ phương pháp chánh niệm này mà ngài không bị chia trí, không khổ đau vì những buồn phiền, ân hận của ngày hôm qua. Ngài luôn sống trong hiện tại. Sống trong hiện tại là sống không có thời gian, một đặc tính của Thiên đàng hay Niết bàn vậy.
Điều quan trọng hơn có lẽ là dù ân cần, thương yêu, quý trọng thân xác nhưng ngài biết nó chỉ là một uẩn (sắc uẩn). Nó do vô số duyên hợp lại mà thành và rồi nó sẽ tan biến đi khi hết duyên, khi duyên dứt. Nó tự không mà đến và sẽ trở lại không. Nó vẫn có mà là không, vẫn không mà là có. Khi hiểu thân xác mình, hiểu được cái tạm bợ của thân xác, các uẩn thay đổi, biến dịch, già, bệnh, chết..., ngài hiểu đó là chuyện đương nhiên, chuyện bình thường, cho tất cả mọi loài, mọi người. Cớ sao lại khổ đau?
Hiểu và thương thân xác mình thì biết ơn nó, tôn trọng nó, giữ cho nó xanh tươi dài lâu bằng cách tưới tẩm những niềm vui, ăn những thức ăn lành, sạch. Hiểu và thương thân xác mình thì cũng hiểu và thương thân xác người. Hiểu cái sự đến và sự đi, cái duyên khởi và duyên tận, cái thiếu hụt khiếm khuyết (tàn tật), cái bệnh hoạn ốm đau, thấy mọi người là ta và ta cũng là mọi người. Hiểu và thương thân xác vì nó được cấu tạo từ tứ đại, lấy từ đâu đó, từ cha mẹ, ông bà, từ ngàn năm, nhiều triệu năm trước, tổ hợp trong các gene và truyền đi. Khi đọc các lời giảng giải kinh sách, có lẽ ta phải hiểu cụm từ Ềthoát vòng sanh tửỂ không có nghĩa là tu thành chánh quả thì không chết nữa, già nữa, không bệnh nữa.... mà chỉ có nghĩa là sáng suốt ra, ý thức được cái duyên sinh, cái biến dịch, cái đổi thay, tức vô thường, vô ngã. Hiểu như vậy rồi thì vui với nó, thản nhiên với nó, không chạy trốn, không nguyền rủa, không sợ hãi, nghĩa là 'thoát', vượt qua!

Thọ, Tưởng

Có sắc uẩn mới có thọ uẩn. Có thọ uẩn mới có tưởng uẩn. Tưởng có từ cảm xúc, nhận thức của giác quan, tác động lên tâm. Một lần thấy con rắn, biết rắn độc, lần khác thấy sợi dây có dáng giống rắn thì tức khắc cơ thể phản ứng tự vệ: xanh mặt (co thắt mạch máu ngoại biên), toát mồ hôi lạnh, cortisol và adrenaline tiết ra làm tim đập loạn xạ, huyết áp tăng cao, khô miệng, co cứng cơ..., vụt chạy hoặc nặng quá thì ngất, té cả phân, nước tiểu trong quần do tác động co thắt cơ trơn. Tưởng dẫn đến tưởng tượng, vẽ vời, tạo ra thành kiến, nghi lỵ, ghen tuông. Những nỗi sợ hãi, lo âu, giận dữ thường là do 'tưởng uẩn'. Nếu ta chịu khó chép ra trên giấy những nỗi giận dữ, lo âu, sợ hãi của mình, đợi một thời gian xem lại, sẽ thấy hoàn toàn ngớ ngẩn, tức cười! Vậy mà lúc đó năng lượng ùa tới khiến ta có thể phóng chạy rất nhanh hoặc đập nát một cái gì đó không hay biết, không ngờ mình mạnh đến như vậy, khỏe đến vậy. Tưởng uẩn còn ở giai đoạn thái độ, chưa chuyển sang hành động, nhưng đây đã là yếu tố rất quan trọng, nó 'dẫn dắt' cho hành động, tô điểm và xuyên tạc, hư cấu và đẩy tưởng tượng đến mức không lường được. Con người có khả năng này (tưởng) rất mạnh: chưa có cơ sở khoa học gì mà Jules Verne chỉ tưởng tượng thôi cũng đã viết được những chuyện giả tưởng 20 ngàn dặm dưới đáy biển, thám hiểm cung trăng... Leonardo da Vinci nghĩ ra máy bay và cách nhảy dù nhiều trăm năm trước khi có những chiếc máy bay đầu tiên. Truyện Phong Thần chỉ là tưởng tượng mà ngày nay khoa học dần dần thực hiện được hết. Thiên lý nhãn, thuận phong nhĩ, đằng vân giá võ... Tóm lại, tưởng uẩn rất tốt, miễn là đừng thiên kiến, đừng thổi phồng để từ đó sinh ra khổ đau khi không được như ý.
Người nghệ sĩ nhạy cảm với mọi 'pháp' sẽ là người khó khăn với cái tưởng uẩn này. Người trí thức cũng vậy. Thu thập tri thức, biện biệt, so sánh, tưởng tượng! Chính vì thế các thiền sư không ưa trí thức. 'Cãi chày cãi cối' thì giỏi mà 'hành' thì dở. Nhưng khi họ vượt thoát được cái bản ngã nặng nề của họ thì họ cũng có thể 'ngộ' mau chóng hơn.

Hành

Hành uẩn có lẽ là cái uẩn khó hiểu nhất. Mỗi nhà nghiên cứu giải thích mỗi khác. Bản tiếng Anh có khi dịch đơn giản hành là hành động. Actions! Bản tiếng Pháp dịch hành là formation. Đoàn Trung Còn dịch là impression. Thích Thiện Siêu phân tích hành uẩn cho rằng vừa có tính trôi chảy, vô thường, biến dịch (thiên lưu) vừa có tính tạo tác, nghĩa là nói, làm, suy nghĩ (thân, khẩu, ý) đã bắt đầu không dừng lại ở tưởng nữa mà chuyển sang ý chí, quyết định, hành động (Ngũ Uẩn Vô Ngã, Nxb Tôn giáo, 1999). Từ 'tưởng' qua 'tư' (ý chí), tức là đã bắt đầu xuất hiện hành vi rồi!
'Hành' tạo ra sự tốt, sự xấu. Còn ý tưởng mới chỉ là nghĩ suy, nhưng như đã nói, ý tưởng rất quan trọng, cần 'kiểm soát' chặt chẽ trước hết. Vì 'hành' mà 'vô tâm' thì không tạo nghiệp! Một đứa trẻ mới học được câu chửi thề tình cờ buột miệng chửi ta thì ta sẽ không giận mà thấy tức cười, thấy ngộ nghĩnh, dễ thương! Một người điên chửi ta ta cũng cười, không giận. Nhưng một người nào khác đụng tới ta thì phải biết tay!
Hành uẩn có cả Tâm lẫn Sắc, nó là giai đoạn chuyển biến phức tạp từ ý tưởng qua hành vi. Từ nghĩ sang làm. Nghĩ là quan trọng. Không đợi làm. Mới có suy nghĩ mà chưa biến thành hành vi thì chưa chịu trách nhiệm về phía xã hội, nhưng với bản thân ta, suy nghĩ xấu đã tạo ra khổ ải, trách nhiệm dài lâu, có hại rồi, suy nghĩ tốt đã có ngay an lạc hạnh phúc rồi!

Thức

Có lẽ phần quan trọng nhất là Thức Uẩn, nên được đặt sau cùng. Vả lại cũng theo một logic: có Sắc mới có thọ, có thọ mới có tưởng, có tưởng mới có Hành và có Hành mới có Thức. Nói tóm lại, có Thân mới có Tâm. Gắn liền nhau không tách rời. Cái tệ hại lớn nhất của người trí thức là coi trọng cái trí, coi trọng cái thức hơn cái Tâm. Kẻ đồ tể chỉ cần buông dao là thành Phật. Người trí thức còn lâu! Tâm bản nhiên vẫn có đó, còn đó như của em bé sơ sanh nhưng đã bụi che mờ đi qua thời gian. Kẻ 'ngu phu' ít bị che mờ, chỉ cần chùi lau một lớp bụi thì đủ trở lại tâm bản nhiên. Còn người càng 'trí thức' càng bị lớp lớp dày đặc của bụi bám, không chỉ bụi, bùn đất mà còn dầu, còn sơn... các loại. Chùi rất khó sạch, rất lâu sạch. Lại còn cái yếu đuối của Sắc, cái nhạy cảm của Thọ, cái phong phú của Tưởng, cái lẩn thẩn của Hành thì càng khó mà tìm tới tâm bản nhiên. Nói khác đi, cái ngã của người trí thức là một cái ngã quá nặng, quá dày, quá nhiều lớp lang. Tuy vậy, một khi trải qua thử thách, họ sẽ thoát mau hơn, vì không còn cái kiến thức khô cứng nữa mà đã là tuệ giác. Phật cũng là một trí thức. Một thái tử. Một người Bà la môn.
Trong ngũ uẩn, Thức là kẻ chủ mưu, là bộ phận chỉ huy, là kẻ phân tích và tổng hợp, đánh giá, đưa ra quyết định cho hành động. Kẻ chủ mưu, kẻ chỉ đạo này lại bị hành xử bởi những kinh nghiệm, thói quen khởi động ra bên ngoài (ý thức), liền bị chụp cho cái mặt nạ là cái Ngã, cái Ta phải như vầy, như khác, mà thật ra không phải là cái Ta thật, ta Chân như. Vì vậy mà ta sống, ta hành xử như sắm một vai kịch mà không tự biết. Nếu có 'chánh niệm', ta sẽ cười chính ta như một người xem tuồng, xem phim do mình đóng. Ở châu Âu có những vũ hội hóa trang, ở đó người ta chụp cái mặt nạ khác, ăn mặc khác để không ai nhận ra mình, nhờ đó mà tạm thoát cái ta cũ kỹ để trở lại cái ta hồn nhiên, cũng là một cách 'giải thoát'. Có hai vợ chồng sống chung nhiều năm không hạnh phúc, cắng đắng nhau hoài, tính chuyện ly dị. Khi vào dự vũ hội hóa trang, họ tìm được người tâm đầu ý hợp, quyết định tiến tới hôn nhân, lúc bỏ mặt nạ ra thì hóa ra là... hai vợ chồng cũ. Thì ra Sắc (thân xác) quan trọng nhưng là kẻ 'hữu dõng vô mưu', bị sai khiến bởi Thức. Thức xấu: tham, sân, si, làm khổ thân. Thức tốt: từ bi hỉ xả làm sướng thân. Thay đổi một hành vi rất khó vì đã thành thói quen, rất khó bỏ, phải thay đổi thái độ trước - có cái nhìn mới, khác - và phải có kiến thức đúng đắn góp phần giúp đỡ, thêm môi trường chung quanh hỗ trợ mới có thể thành công.
Người mới tu phải lên núi, 'thoát trần', trốn các kích thích đập vào tai, mắt, mũi, lưỡi... là vậy. Tu vững vàng rồi có thể 'thõng tay vào chợ'. Ăn chay cũng thành Phật mà ăn mặn cũng thành Phật. Nhưng ăn mặn khó thành hơn vì dễ bệnh, dễ dẫn đến nhậu nhẹt, bia ôm, massage... Nhưng tu mà ngon lành rồi thì không còn sợ, như Phật cũng đã từng bị 'dụ' nhiều phen mà vẫn không nao núng, sa ngã.
Tóm lại, 'Ngũ Uẩn' là 5 thành tố tạo ra cái ta, thân ta, cảm xúc ta, suy nghĩ ta, hành động ta, ý thức ta. Cái ta đậm nét theo thời gian làm thành cái kén nhốt cái Ta thực vào đó, không thoát ra nổi. Thoát được đã thành bướm, bay lượn thảnh thơi, an nhiên tự tại. Bị bó rọ, bị thành kiến che khuất, lấp chặt, dần dần ta bị lệ thuộc, bị níu kéo, ta giữ lề cho 'xứng với ta', với vai ta đóng và bản ngã ta sẽ ngày càng to, càng dầy ra, chính là nguồn gốc của khổ đau. Cái gì có 'ta' trong đó thì tạo ra khổ đau. Nhà ta, của ta, con ta, người yêu ta và thân ta... Mà cái ta đó, theo cái nhìn của Bát Nhã Tâm Kinh, chỉ là sự kết hợp của những thành tố do duyên mà tụ lại, tương tác, tương sinh, tương hợp, cái này có là do cái kia có, quấn quít chằng chịt lẫn nhau - như những thành tố tạo nên cái đồng hồ gồm kim, bánh xe, con lắc.... và sinh ra tiếng tích tắc. Tích tắc vốn không có, thực không có, do kết hợp các thành tố riêng lẻ mà có. Gỡ bỏ các thành tố ra để tìm lấy tiếng tích tắc (cái ngã) sẽ không thấy đâu nữa. Ráp lại thì có. Cái tiếng tích tắc, không mà có, có mà không, trống rỗng mà tràn đầy, là sự vận hành tuyệt diệu của cái đồng hồ. 'Chân không' cũng chính là 'diệu hữu'. Dừng lại ở 'không' đơn thuần, như một xóa bỏ, từ chối, hư vô chủ nghĩa là một sai lầm tai hại.
Sắc uẩn tuy chỉ là cát bụi nhưng là một 'cát bụi tuyệt vời', thân xác tuyệt vời, từ mái tóc, làn da, mùi hương, ánh mắt, nụ cười, nhưng bám sắc rõ ràng là một sai lầm mang đến khổ đau. Nó vô thường, nó thay đổi. Nó phai màu, nó nhăn nhúm. Phai màu, nhăn nhúm mà vẫn đẹp, vẫn cứ đẹp. Nó có lão, có tử nhưng vẫn đẹp. Không có buồn, vui, sướng, khổ ở đây. Nó vậy. Nó là. Còn Thọ, Tưởng, Hành, Thức tạo thành Tâm, phức tạp, ly kỳ, nhưng không có Thân thì không có Tâm. Tâm an thì Thân an. Tâm tự rước khổ đau thì làm cho Thân khổ đau. Thức là chủ tể của Tâm. Thức đúng thì Tưởng đúng, Tưởng đúng thì Hành đúng. Thọ đúng. Tinh thần Bát Nhã giúp cho Thức trở thành đúng, thấy đúng, hiểu đúng, biết đúng. Hành thâm Bát Nhã là sự rèn luyện kết hợp giữa thân và tâm. Huệ Năng, Tổ thứ VI, cho rằng tụng niệm Bát Nhã mà không hiểu gì về Bát Nhã, không 'sống' Bát Nhã cũng vô ích. Sống Bát Nhã là sống với tự giác, sống với thức 'bất nhị', vượt qua mọi chấp trước, không còn bị cản ngại, cái thấy trở nên trong sáng hồn nhiên thì đạt sự yên bình, chứ không phải là sự u mê, xóa bỏ, triệt tiêu. Phàm phu cũng là Phật sẽ thành. Khi còn mê là phàm phu, tỉnh thức là Phật. Dĩ nhiên có lúc là phàm phu, lúc là Phật, trong cùng một người, trong cùng một thời điểm. Vì thế mà phải cần sửa, cần rèn, cần luyện, để cái tỉnh thức ngày càng nhiều để cuộc sống đẹp hơn, ý nghĩa hơn và để không còn khổ đau. Niết bàn có ngay ở đây và bây giờ.

Kết

Tâm Kinh chỉ gồm 260 chữ, mỗi chữ đều là một nhát búa khắc trên vách núi đá cao. 'Ngũ uẩn giai không' là cốt lõi của Tâm Kinh, trái tim của trái tim và trong bốn chữ đó thì KHÔNG lại là cốt lõi của cốt lõi.
Có thể nói toàn bộ Tâm Kinh gút lại trong một chữ KHÔNG đó. Tất cả các phương pháp tu tập cũng đều có mục đích đạt đến cái Không đó. Tới được cái 'chân không' là để thấy cái 'diệu hữu', để đạt giác ngộ, giải thoát, 'thoát vòng sanh tử', 'cứu cánh niết bàn', hoặc có thể dùng bất cứ một từ gì để ca ngợi như 'Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác', 'A nâu Đa la Tam miệu Tam bồ đề', 'Supreme Enlightenment', 'La phus haute et parfaite Illumination'... Tóm lại là có thể 'tán thán' đủ kiểu, đủ từ để ngợi ca cái thành tựu tu tập đạt đến chữ Không này! Các chùa còn được gọi là 'không môn' là vậy.
Osho cũng nói vậy: Không là mấu chốt của Phật giáo. Tiếng Anh không có từ tương đương. Không là cái trống rỗng, như ng không phải là cái trống rỗng tiêu cực mà tích cực. Nó tựa như bầu trời trống rỗng, không gian thuần khiết, nhưng nó có đó, mọi thứ tới trong nó và đi. Nó ở lại.
Bầu trời vô ngã. Con người tạo ngã, sinh ra bản ngã. Bám víu lấy ngã và phát triển ngã ngày càng mạnh mẽ, to lớn hơn và do vậy bị bao vây càng chặt hơn, không thoát ra được.
Thế nhưng cũng không cần phải gắng sức loại bỏ bản ngã. Trái lại, cũng cần phải trải qua nhiều bản ngã để đạt tới cái không, cái vô ngã. 'Câu chuyện của dòng sông' của Herman Hesse là một thí dụ: một bản ngã trí thức Bà la môn, một bản ngã sa môn khổ hạnh biết nhịn đói và đợi chờ, một bản ngã nhà buôn, người tình, người cha... và người đưa đò bên dòng sông biết nghe tiếng nói của dòng sông. Con đó 'Bát Nhã' đó đã đưa bao nhiêu người 'đáo bỉ ngạn'? Còn kẻ chèo đò kia lòng có xốn xang một hôm gặp lại người xưa cũng đang đi tìm đường giải thoát? Đứa con rồi cũng phải đi lại cho trọn con đường của nó. Nó phải vậy. That is it. C'est cà.
Phật không dạy phải loại bỏ bản ngã. Thật là sai lầm khi nghĩ rằng Phật bi quan yếm thế, chủ trương diệt ngã. Vấn đề là thấy được vô ngã. Thấy chân không. Nhìn cho kỹ vào ngã, sẽ không thấy ngã, nó tự biến mất, bởi vì nó vẫn có đó mà vốn là không. Không mà có, có đẹp hơn. Sự mê muội của bản ngã như thấy sợi dây mà tưởng là con rắn, sợ điếng hồn, lúc biết rõ thì cười ra nước mắt. Bát Nhã Tâm Kinh không vòng vo mà như nhát búa vừa phá vỡ vừa khẳng định đó vậy.

Return to “Tu Tập”

Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 2 guests