Hương Áo và thơ LuânTâm

Moderator: Quỳnh Hương

Luan Tam
Transistor
Posts: 28
Joined: 23 Jan 2008 19:21

Hương Áo và thơ LuânTâm

Postby Luan Tam » 23 Jan 2008 23:00

Về Một Người Bạn (Bài tựa thi tập Hương Áo của LuânTâm)

Dương Quân

Mỗi khi bạn bè nhắc đến Luân Tâm, tôi đều đinh ninh có vài ý nghĩ chính yếu như sau:

Thứ nhứt: Tôi rất thán phục và ca ngợi Luân Tâm là người gương mẫu giữ tròn được đạo đức truyền thống cao quý Đông phương trong tình nghĩa vợ chồng. Anh Chị là đôi bạn từ thời còn Tiểu học, yêu nhau thời Trung học, Đại học và thành đôi bạn đời sau khi tốt nghiệp. Đôi bạn “đồng sàng đồng điệu” nầy đã cùng nhau chia xẻ biết bao cay đắng ngọt bùi, nghịch cảnh bể dâu, thăng trầm quá dữ dội, nhất là sau thảm họa tháng tư 1975, Luân Tâm bị đọa đày biệt xứ.

Bảy năm trước đây, chị Luân không may bị bệnh stroke rất nặng, đến nay vẫn còn rất yếu phải ngồi xe lăn. Anh Luân Tâm đã phải nghỉ việc, ngày đêm luôn luôn sát bên chị, hết lòng hết sức thương yêu, an ủi chăm sóc tỉ mỉ cho Chị từ viên thuốc, ly nước, bữa ăn... đến những sinh hoạt cá nhân thông thường. Hơn thế nữa, Anh còn làm thơ, không phải để kiếm cho mình chút tiếng tăm gì, không mong góp một chút hương sắc gì vào khu vườn văn nghệ, mà chính là để an ủi, tâm sự, mua vui cho người vợ hiền lý tưởng (nhưng quá bạc phước) của Anh. Thật đúng như câu nói của người xưa:

"Nhứt nhựt phu thê: bá dạ ân,
Bán dạ đồng sàng: chung dạ ái!"

Thứ Hai: Tôi rất thương quý và ngợi khen ba đứa cháu, con của Anh Chị Luân Tâm, gặp nghịch cảnh, gia biến, đã nêu cao tấm lòng hiếu thảo đặc biệt tốt đẹp đối với cha mẹ. Các cháu đã cùng nhau đoàn kết gánh vác mọi việc gia đình để cho Ba có toàn thời gian với Mẹ, lo cho Mẹ được đầy đủ từ năm nầy sang năm khác.

Trong điều kiện khắc nghiệt như thế, các cháu còn cố gắng phi thường để đạt được những thành quả xuất sắc trong học tập và việc làm, khiến cho Ba Mẹ rất vui, hãnh diện, được an ủi rất nhiều. Tấm gương hiếu thảo và hiền ngoan của các cháu thật là những viên ngọc quý hiếm tuyệt vời khó tìm thấy trong xã hội ngày nay.

Thứ ba: Tôi nghĩ thơ Luân Tâm mang một sắc thái rất riêng biệt với một bút pháp thật độc đáo lạ lùng. Thật vậy, có lẽ bắt nguồn từ hoàn cảnh gia đình rất đặc biệt và “background” cũng rất đáng kể (Anh tốt nghiệp Cử Nhân Văn Khoa, Cao Học Hành Chánh, đã giữ chức vụ Giám Đốc Nha Công Tác Nghị Trường, Nha Nghiên Cứu Pháp Chế Thượng Nghị Viện VNCH.) nên Luân Tâm có đủ tư thế tạo được một phong cách riêng biệt để gởi gắm những tâm tình, suy tư của mình trong thơ.

Luân Tâm thường nói lên kỷ niệm tuổi trẻ, thân phận nghiệt ngã trước thời cuộc, thảm trạng đất nước quê hương bằng một lối thơ khác lạ. Rất khó có ai tóm lược được hết những gì tác giả muốn gởi gắm. Có lẽ chúng ta sẽ tìm thấy trong thơ Luân Tâm dáng dấp của lãng mạn trữ tình, có khi ẩn dụ bay bướm, trừu tượng... nên nhiều bạn bè không thể hiểu hết chủ ý của tác giả, đã gán cho tác giả cái nhãn hiệu “Siêu Thực", hay lập thể theo kiểu tranh Picasso.

Đặc biệt, khi xúc cảm, ý thơ, hồn thơ tuôn trào xuống ngòi bút thì Luân Tâm dám bất chấp mọi ngữ nghĩa thông dụng, gạt bỏ, xáo trộn mọi trật tự thường tình, khuôn mẫu cấu trúc, cú pháp, qui luật văn phạm cổ điển, giáo khoa mà Anh đã từng rèn luyện kỹ lưỡng từ thời Trung học, có chứng chỉ chuyên môn Ngữ Học Việt Nam ở Đại Học Văn Khoa Sàigòn, lại được giáo sư thi sĩ Đông Hồ thương yêu hướng dẫn thêm. Do đó, có nhiều chữ, nhiều từ tuy cũ, “tầm thường", nhưng qua “pháp thuật của tay phù thủy Luân Tâm", chúng đã trở nên sống động, mới mẻ, biết ca múa đẹp lạ lùng, cực tả được những tâm trạng, suy tư, cảnh đời...

Thí dụ:
"Sững sờ cây trả áo xanh,
Trời thương biển nhớ cũng đành... bú tay!”
(Trả Áo Xanh)
Hoặc là:
"Chiều đeo đỉnh núi phù sinh,
Thương ta dứt sữa, đau mình sẩy thai!”
(Phù Sinh)

Bằng một phong thái hết sức nghệ sĩ, phóng khoáng tài hoa, rong chơi trong thế giới chữ nghĩa, Anh chỉ muốn được hoàn toàn tự do viết cho người vợ hiền thân yêu, cho tâm sự của người trai bất đắc chí, cho quê hương đất nước ngửa nghiêng tan nát, xuất phát từ đáy tiềm thức của thế giới kỷ niệm dĩ vãng xa xưa hoặc ức chế của tư duy bi đát hiện tại. Vì thế, thơ Luân Tâm có khi giản dị đáng yêu, có khi lại lạ lùng khó hiểu!

Chúng ta có thể kể vài câu thơ giản dị rất đáng yêu như:
"Chợt nhìn môi rượu đã say,
Gom bao tóc rụng xây đài tương tư!"
(Khóc Trong Mắt Cười)

Hay: “Điệu buồn anh giữ riêng anh,
Điệu vui anh vẫn để dành cho em!"
(Đường Tình)

Hoặc: “Mai kia hai đứa đi rồi,
Còn ai phơi áo trên đồi cỏ non?
Tóc tiên gót đỏ môi son,
Chỉ còn hạt bụi mỏi mòn lãng quên!"
(Chập Chờn)

Mặt khác, cũng có rất nhiều câu, bài thơ khó hiểu như:

"Ngày tàn suối cạn lòng khô,
Phơi đuôi tép bạc vun mồ râu tôm!
Treo buồn giày cỏ mũ rơm,
Đào hang tìm nước vo cơm rửa vàng!"
(Dã Tràng)
Phải chăng tác giả muốn bóng gió, dùng ngôn ngữ và hình ảnh thơ để gián tiếp chỉ một số người của một chế độ sụp đổ (ngày tàn): người thanh liêm thì chỉ “tìm nước vo cơm” vì sinh kế còn những kẻ tham nhũng, cậy quyền cao thế mạnh để bóc lột vơ vét thì “tìm nước rửa vàng"?

Hay là:
"Đi ngang đám lá tối trời,
Bao nhiêu con đỉa no rồi nằm im!
Con nằm ngửa con nằm nghiêng,
Trăm nghìn con nhện giả tiên đợi chờ..."
(Đám Lá Tối Trời)

Ở đây, hình như tác giả muốn ám chỉ bọn thổ phỉ từng đóng chốt đoạn tỉnh lộ “đám lá tối trời” để thu tiền “mãi lộ” người và xe cộ qua đoạn đường đó bằng hành động kẻ cướp. Ngày nay, bọn chúng đã “no nê” như những con đỉa đã hút no máu, đang “nằm ngửa, nằm nghiêng” cùng với những con nhện (tượng trưng cho kẻ ác, lưu manh, độc hiểm) lại tự xưng là “đỉnh cao trí tuệ” là “tiên” đang mù quáng, ngoan cố lừa bịp và tự dối mình để mơ tưởng đến một thế giới đại đồng phiêu lưu, không tưởng ?

Hơn thế nữa, chúng ta sẽ còn có dịp khám phá nhiều điều kỳ thú trong khu “rừng thơ Siêu Thực” của Luân Tâm. Chúng ta sẽ bất chợt ngạc nhiên bắt gặp nhiều góc cạnh, sắc màu, âm thanh, khuôn mặt rất khác nhau của cá nhân, xã hội, của vật chất và tâm linh biến đổi liên tục, tùy theo sự nhận dạng, chỗ đứng, kinh nghiệm, khuynh hướng tình cảm, hoàn cảnh cá nhân, cách thế suy diễn riêng của từng người đọc. Tác giả sẽ đưa chúng ta đi về những vùng hồi ức rất chập chờn hoặc những thế giới tưởng tượng thật mênh mông bát ngát “mơ như thực, thực như mơ” vô cùng diễm ảo lạ lùng! Thưởng thức thơ Luân Tâm có thể làm cho chúng ta động não, suy nghĩ một chút... nhưng chúng ta sẽ được đền bù xứng đáng vì công sức đóng góp khám phá của mình.

Thơ Luân Tâm là một sự phối hợp tài tình giữa sự đơn sơ, mộc mạc quê mùa (nhưng rất đẹp như tục ngữ, ca dao) và sự cao sang, đài các, trí thức, giữa cổ điển và hiện đại, giữa thể xác và tâm hồn, giữa hiện tại, quá khứ và tương lai. Hình như chưa có nơi nào hai phạm trù “bóng hình, hình bóng” và “chiêm bao, mộng mơ” được phát triển, thăng hoa tuyệt vời như trong thơ Luân Tâm. Đến đây, tôi bỗng chợt nhớ có lần văn hữu họa sĩ A.C.La.Nguyễn Thế Vĩnh (Canada) đã nhận xét rất đúng: “Thơ Luân Tâm bàng bạc hình ảnh mới lạ, tứ thơ khác thường!". Còn đối với nhà văn, nhà thơ đồng môn Hành Chánh Lâm Thanh (Australia) thì: “Bụng thơ Anh (Luân Tâm) lớn như Biển Hồ Tonlé Sáp . Suối thơ Anh chảy êm đềm nhưng có khi cũng quá dữ dội như dòng sông chín cửa (Cửu Long). Muốn chết ngộp trong dòng thơ khoáng đạt miên man bất tận của Anh".

Thiển nghĩ, có lẽ người vui mừng nhất để đón nhận Thi Tập Hương Áo của Luân Tâm chính là chị Luân người vợ hiền thục khả ái của Anh vì Chị là động cơ chủ yếu để có Tập Thơ nầy. Rất mong chị được thực mạnh khỏe với nụ cười vui tươi mãn nguyện. Độc giả và thân hữu chúng tôi xin chân thành chúc mừng Anh Chị có được “đứa con tinh thần” thêm vào sự nghiệp “ba đứa con rất mực hiền ngoan hiếu thảo” mà Anh Chị hạnh phúc có sẵn bên cạnh từ bấy lâu nay.

DƯƠNG QUÂN

(Quí thu 2006)

Luan Tam
Transistor
Posts: 28
Joined: 23 Jan 2008 19:21

Postby Luan Tam » 23 Jan 2008 23:10

giáng tuyết
Thân tặng Lan Đàm

Khi những cánh hoa tuyết mong manh, bé bỏng đầu mùa nhẹ nhàng đáp xuống sân ngôi nhà mới, lắng đọng mấy giọt mềm mại dễ thương trước thềm hoa, lững lờ ve vuốt cánh cửa kính lạnh lẽo của thư phòng tĩnh mịch, tôi bỗng mơ hồ thấy tà áo trắng của một nàng tiên hương sắc tuyệt vời... lòng bỗng bâng khuâng tự hỏi: “không biết Giáng Tuyết có phải là hoá thân, tiền kiếp hay hậu kiếp của Giáng Tiên, Giáng Ngọc, Giáng Hương một thời cổ tích, mộng mơ?”
Bao nhiêu xúc cảm bồi hồi, buồn vui lẫn lộn kỷ niệm nắng mưa gần trọn một đời người dâu bể, lênh đênh... cuốn hút tôi vào trang giấy trắng nửa thực nửa mơ... để rồi trong chớp mắt, bất chợt hình bóng yêu kiều thân thương kia vụt biến mất, chỉ còn rơi rớt lại mấy dòng thơ nhạt nhòa lạnh buốt gối chăn, bàng hoàng da thịt...


Luân Tâm


Cây ngủ hay cây đã chết rồi?
Đường buồn hoa lá bỏ cuộc chơi!
Cánh chim lẻ bạn tan thành tuyết,
Lạnh đau chăn chiếu, đau đất trời!

Co ro trong bụi rậm, hang sâu,
Con trùn, con kiến đợi kiếp sau?
Rễ non cành mục sầu răng cứng,
Đói lạnh không chừa chỗ... chôn nhau!

Từng mảnh hồn đau, từng dấu chân,
Nhạt nhòa tượng đá, nhớ xa gần,
Buồn qua sông suối mây ôm núi,
Ong bướm tan thành bóng thiêu thân!

Gọi trăng, gọi gió, gọi sao nào?
Trời quên xuống thấp, biển lên cao?
Hay là mưa nắng buồn đi vắng?
Để gót xuân hồng lạnh trước sau

Sắc hương ngày cũ đi về đâu?
Chẳng lẽ nghìn đời phải mất nhau?
Trần gian không đủ khăn tang trắng?
Buồn đến, buồn đi: tưởng chiêm bao!

Môi cũ mắt xưa cũng xanh rêu?
Tim đau hóa đá hết đường yêu?
Hai bàn tay nhớ nơi hò hẹn?
Lòng đâu còn lửa gọi mưa chiều?

Phong, hoa, tuyết, nguyệt: đẹp thơ Đường,
Tan theo khói lửa mất quê hương,
Đi về tuyết nhuộm đường lưu lạc,
Nhuộm trắng áo sầu gót tang thương!

Nắng nghiêng vành nón đã phai nhòa?
Bếp lửa thần tiên đã quá xa:
Củ khoai, trái bắp còn hơi ấm
Tay Mẹ cho con dệt mơ hoa!

Mẹ đi đâu rồi Ba đi đâu?
Không còn chuồng lợn không chuồng trâu,
Không mùi rơm mới không nhang khói,
Lạnh bốn phương trời, lạnh thiên thu!



MD đêm 25/11/05
(lần đầu tiên tuyết về thăm ngôi nhà mới!)

Luan Tam
Transistor
Posts: 28
Joined: 23 Jan 2008 19:21

Postby Luan Tam » 23 Jan 2008 23:18

thơm
Thân tặng Nguyễn Bửu Thoại & Ngọc Sương

Gửi người một chút hương thôi
Mai sau còn tưởng trọn đời có nhau
Gửi người một chút mai sau
Bây giờ bóng nắng vẫy chào bóng mây

Em nằm thơm cỏ gối cây
Ta nằm thơm suối nước say gối bờ
Không đời không đạo không thơ
Không đàn không hát không chờ mối ăn!
Bên kia không tháng không năm
Bên nầy sông núi cũng bầm dập thương
Lưỡi mòn dao thịt cắt xương
Nhớ nhau khô ruộng cháy vườn hỏng xôi!
Đói hôn hết chỗ em ngồi
Yêu nghìn kiếp trước lên ngôi bây giờ
Tàn kinh tàn sử tàn cờ?
Nghìn sau thức giấc lệ mờ tình thư
Chân chim tai thỏ hiền từ
Tìm trăng giỡn bóng tương tư hết nguồn
Đi đau giông bão tha hương
Về đau động đất thèm đường chiêm bao
Sáo nâu mê áo cào cào
Đỏ môi hồng cánh chân cao cò cò
Thơm vòng kỷ niệm chưa no
Còn vương nửa tiếng dặn dò... mưa rơi!
Ta như hòn đất rã rời
Em như gà nước vịt trời rụng lông!
Không ao không vũng không đồng
Mỏi mê cuối bãi đầu sông chống chèo!
Ta như dưa chuột dưa leo
Em như củ cải muối treo để dành
Trời đông tháng giá nấu canh
Cũng thơm một bửa cũng đành bụng rau!
Có thương rồi cũng có đau
Đói no ấm lạnh ôm nhau vẫy vùng
Quên chăn quên chiếu quên mùng
Trao da đổi thịt hồn chung như tình...


MD 03/20/06
LuânTâm

Luan Tam
Transistor
Posts: 28
Joined: 23 Jan 2008 19:21

Postby Luan Tam » 23 Jan 2008 23:23

Lòng Chị
* Vô cùng thương khóc Chị P.Th.Nghĩa *


Bão tuyết ngăn đường che bóng quê
Sóng gào gió hú nắng ngủ mê
Trôi trong cát bụi thiên thu lạnh
Không biết ra đi hay trở về?

Sét đánh ngang tai? Ác mộng nào?
Chị bỏ em đành đi thực sao?
Không chờ em kịp về thăm chị
Em tưới luống cà chị tưới rau…

Chị ơi! Thân chị quá thảm thương
Ngậm đắng nuốt cay dấu đoạn trường
Chồng con bạc bẽo… Thôi! Xong nợ
Lòng đất lạnh tình nghĩa chao tương!

Xin chị bình yên cõi mênh mông
Không bị sẩy thai không té sông
Chông gai trắc trở vùi dâu bể
Quên thuở đầu thai lỡ… sụp hầm!

Hết lo khói lửa hết đói nghèo
Hái rau xắt chuối nấu tấm heo
Bồng em xách nước mòn xay lúa
Chân le chân vịt mỏi chống chèo!

Kể chi mười sáu với mười ba
Áo lụa phấn hồng của người ta?
Chị như rau đắng sau hè vẫn
Thơm mát canh chua dành Mẹ Ba!

Bầy em nhõng nhẽo quấn chân hoài
Bắp nướng không thèm đòi luộc khoai
Đòi đùa đòi cõng đòi ru võng
Chị chỉ tức mình… có hai tay!

Cơm sôi cháo khét heo đòi ăn
Chạy mưa đậy lúa dẹp áo chăn
Củi đòn củi chẻ vô nhà bếp
Hứng nước đầy lu lạnh cắn răng!

Không xin áo mới không tuổi xuân
Tay chai má nám mắt thâm quầng
Thờ Ba kính Mẹ cưng em dại
Ngày mưa tháng nắng vẫn chân trần!

Mười bảy đơn sơ tóc không thề
Vu qui không pháo áo vẫn quê
Lạy Ba lạy Mẹ, Ông Bà… khóc
Lạnh sóng Hàm Luông đau Bến Tre!

Mẹ khổ quanh năm chị cực hoài
Con hư chồng dữ áo cơm đày
Nửa đường gãy gánh chiều bom đạn
Nhà cháy vào chùa xin cơm chay!

Hè phố lang thang bán cà phê
Nuôi con ăn học khổ trăm bề
Miếng ngon vật lạ dâng Ba Mẹ,
Vẫn áo nâu sồng vẫn hồn quê!

Đổi đời máu nhuộm biển hận thù
Chị khô nước mắt khóc em tù
Thân tàn ma dại xanh rừng núi
Em về chị khóc: “Mẹ còn đâu!” (1)

Nhịn ăn nhịn mặc cho cháu, em
Chị lại còng lưng tóc bạc thêm
Thức khuya dậy sớm đèn leo lét
Dầu đâu còn đủ đến nửa đêm?

Thương em lưu lạc khóc như mưa
Ngất xỉu bên thềm ga tiễn đưa
Em như giẻ rách chị mít ướt
Chanh hết nước rồi khế hết chua!

Nửa vòng trái đất quà thuốc về
Khi nhỏ khi to khi quá…quê!
Chị vui như gặp em trai út
Còn quí hơn vàng ai dám chê?

Vợ bệnh còn thương nhắc quà xuân
Cho chị thuốc thang trả nợ nần
Ngờ đâu chỉ kịp lo chôn cất
Còn tưởng báo lầm… tang người dưng!

Thôi! hết lòng quê hết bóng quê…
Mồ hoang mả lạnh mối trùn chê
Dế mèn dế nhủi thương ru chị
Đêm vắng canh dài trả bến mê!

Em sẽ về như… ốc mượn hồn
Hàng cây vú sữa tím hoàng hôn
Bồng em tóc chị thơm hoa bưởi
Tay cánh chim chiều trốn cô đơn?

Khói lạnh nhang tàn chị về đâu?
Sinh ly tử biệt huyết lệ trào
Bóng qua cửa sổ đâu còn bóng
Xin chị cho em gặp… chiêm bao!

Chị ơi! Lạy chị: xin an bình
Áo Tiên mắt Phật lời chân Kinh
Mây đưa gió đón trăng sao đợi
Hết nợ hết duyên hết vô tình!

Gặp lại Mẹ Ba chắc chị vui
Em gửi kính yêu lạy hai Người
Một ngày biển lặng em thanh thản
Trở lại quê xưa xin chị… cười!

MD 07-02-2007
(tức 20 tháng chạp năm Bính Tuất)
LuânTâm


1) Lúc tôi vừa bị tù (Không dùng từ này), Mẹ tôi mất nhưng gia đình không cho tôi biết. Khi về tôi mới hay, tưởng như Trời sập!

Luan Tam
Transistor
Posts: 28
Joined: 23 Jan 2008 19:21

Postby Luan Tam » 23 Jan 2008 23:26

nghìn năm

Băng rừng lội suối trèo non
Bóng tan mây rã khói mòn mắt thu
Dìu nhau vào cõi sương mù
Trôi em mộng suối đền bù tái sinh?
Võ vàng xơ xác điêu linh
Vẫn cười đổ quán xiêu đình hơn xưa!
Đói đùa nắng khát tắm mưa
Ru hồn thơm tiếng võng trưa gió chiều
Ngọt ngào lối hẹn dấu yêu
Sông thương biển nhớ cũng liều phù vân?
Hình như nơi ấy đã gần
Hình như quê cũ vẫn thân vẫn hiền?
Nghìn sau em vẫn là tiên
Hương em xóa hết ưu phiền trần gian!
Em như bóng quế trên ngàn
Như bông sen trắng nhụy vàng quê ta
Em đi trên những màu hoa
Tình ca nâng gót thơ tà áo bay
Cùng em giặt áo sông nầy
Cùng em phơi áo trên cây hoa vàng?
Màn trời chiều đất vẫn ngoan
Hai lòng hoà một điệu đàn tri âm
Anh ru em ngủ nghìn năm
Em tan theo ánh trăng rằm ngây thơ!
Em ru anh ngủ mộng mơ
Tình ta vượt thác vượt bờ phù sinh
Nhẹ nhàng thoát xác giữ tình
Dìu nhau vào chốn vô hình vô vi
Bao nhiêu tử biệt sinh ly
Trả cho bể khổ cuốn đi về Trời…
Chiếc hôn tiền sử không rời
Tay nào ôm hết vòng đời… sắc không?

MD 06/29/05
LuânTâm

Luan Tam
Transistor
Posts: 28
Joined: 23 Jan 2008 19:21

Re: Hương Áo và thơ LuânTâm

Postby Luan Tam » 04 Feb 2008 03:34

Đường Vào Thơ...

Luân Tâm



Tôi vốn là một kẻ quê mùa, áo nâu chân đất đầu trần, được sinh ra ở một làng quê bé nhỏ hiền hoà cuả một tỉnh khiêm nhường bên bờ Tiền Giang: “xứ dừa” Bến Tre!

Cha mẹ tôi quanh năm suốt tháng chỉ biết quanh quẩn bên khu vườn, thửa ruộng “trông trời, trông đất, trông mây... trông mưa, trông gió...” Vì thế, tuổi ấu thơ của tôi đã được che chở, bao bọc, bồng bềnh nhẹ trôi trên những câu hò điệu hát dân gian ở những buổi cấy gặt, đình đám, hội hè, ở những tiếng ru em thực êm đềm, vời vợi, buồn buồn xa xôi.

Mẹ tôi dạy con toàn bằng tục ngữ, ca dao! Vừa lọt lòng, hằng ngày Mẹ đã cho tôi uống mãi dòng suối trong mát tuyệt vời đó cùng với dòng sữa ngọt ngào, thiêng liêng, hiền dịu nhất của Mẹ. Tôi không còn nhớ rõ từ lúc nào đã thuộc lòng những câu ca dao thực đơn sơ, mộc mạc nhưng cũng thực đẹp như:

- Gió đưa cây cải về trời,
Rau răm ở lại chiụ lời đắng cay!
- Chim quyên xuống đất tha môì,
Thấy em đau khổ, đứng ngồi không yên!

Hay các câu tục ngữ thực thâm thúy:

- Có qua có lại mới toại lòng nhau
- Ăn coi nồi, ngồi coi hướng
- Múa rìu qua mắt thợ
- Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài!

Hoặc các câu hát ru em đầy tình nghĩa nhưng cũng ít nhiều u uẩn

đượm buồn:
- Chiều chiều ra đứng ngõ sau,
Ngóng về quê Mẹ ruột đau chín chiều!
- Thiếp thương phận thiếp còn thơ,
Lấy chồng xa xứ bơ vơ một mình!
- Anh buồn có chốn thở than,
Em buồn như ngọn nhang tàn thắp khuya!

Còn Ba tôi thì bắt đầu dạy tôi học vỡ lòng lúc gần tròn 5 tuổi. Khi vừa tập đọc, tập viết đựơc khá một chút, ngoài quyển “Quốc Văn Giáo Khoa Thư” rất hay, rất nổi tiếng của cụ Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Ngọc, Đặng Đình Phúc, Đỗ Thận, mỗi trưa, mỗi tối, tôi đều phải đọc cho Ba tôi nghe mấy chuyện đời xưa của Trương Vĩnh Ký, chuyện Giải Buồn của Huỳnh Tịnh Cuả, vài đoạn thơ Lục Vân Tiên, truyện cổ tích viết thành thơ lục bát như Con Tấm Con Cám, Thạch Sanh Lý Thông, Phạm Công Cúc Hoa, Lâm Sanh Xuân Nương, Chàng Nhái Kiểng Tiên... do nhà Phạm Văn Tươi xuất bản. Sau đó đến các bộ Truyện Tàu như Tây Du Ký, Phong Thần, Tam Quốc Chí, Thuyết Đường, Nhạc Phi... Qua các truyện tích trong đó, những lúc theo Ba dọn vườn, làm ruộng, thả trâu, cộ rơm, tôi còn được Ba giảng dạy thêm cho nhiều điều hay lẽ phải, luân thường đạo lý thực tiễn ở đời...

Thói quen đọc sách, mê đọc sách đó đeo đẳng tôi suốt đời. Bởi vậy, khi vừa vào ngưỡng cửa Đaị Học Văn Khoa Sàigòn, ân sư Vương Hồng Sển, đồng bệnh mọt sách, thuộc nhiều Truyện Tàu, đã dành cho tôi một cảm tình rất đặc biệt đến nỗi nhiều lần nói công khai: “Nếu mình có con gái thì đã chọn thằng nầy làm rể đông sàng rồi!” (1)

Tôi không làm sao quên được nếp sống đẹp, những sinh hoạt mộc mạc, lành mạnh, hiền hòa, những phong cảnh đơn sơ nhưng muôn màu sắc ở thôn quê như bướm vờn cỏ hoa, ếch nhái hòa nhạc buồn đêm mưa, như bình minh nắng ấm chim ca; trưa hè đưa võng buồn xa ve sầu! Chiều tàn thơ thẩn luà trâu; Cò qua ruộng luá, sáo nâu bay về! Cu kêu, gà gáy mỏi mê; tắm mưa, giỡn bóng trăng quê hữu tình! Mây trôi gió thoảng ru mình; hoàng hôn khói ấm mái tranh mơ màng... Lập lòe đom đóm hiền ngoan; soi đường dế nhủi, soi hang dế mèn...!

Vừa hơn 7 tuổi, tôi đã phải đi học xa nhà, xa Cha Mẹ, lang thang hết gác trọ nấy đến gác trọ khác, vừa ngơ ngác nhìn ánh đèn điện hắt hiu bé nhỏ cuả tỉnh lỵ Bến Tre đến “đèn Mỹ Tho ngọn tỏ ngọn lu” rồi chợt bàng hoàng lạc lõng với “đèn Sàigòn ngọn xanh ngọn đỏ"! Cũng trong lúc đó, có một bóng dáng bé bỏng, dịu hiền, ngây thơ, xinh đẹp ở làng kế bên mà lần đầu tiên được gặp gỡ, tôi đã có linh cảm mơ hồ rằng mình không sao học, vui sống được nếu hình bóng quá yêu kiều mong manh đó vụt biến mất, cho dù lúc đó tôi còn quá nhỏ để có thể hiểu tình cảm đó là gì! Nàng đúng là nàng Tiên dễ thương trong trí tưởng tượng cuả tôi khi đọc các truỵên cổ tích thần tiên và đã thường ghé thăm tôi trong những giấc mơ đầu đời thực trong trắng nhưng cũng thực lãng mạn! Từ đó, Nàng đã lớn dần, tiếp tục học cùng cấp, cùng lớp, cùng trường với tôi từ Tiểu Học đến Đại Học. Nàng chính là hồn thơ, Nàng Thơ xinh đẹp tuyệt vời, người bạn đời đã hẹn từ muôn kiếp, người vợ hiền thục đảm đang, thủy chung, gương mẫu, người cháu ruột (dư!) của Bà Tú Xương còn sót lại mà Trời Phật, Tổ Tiên đã thương dành cho tôi!

Học Trung Học Công Lập Bến Tre đến hết năm đệ tứ (lớp 9 ngày nay) vừa lên 16 tuổi, tôi phải chuyển qua Trung Học Nguyễn Đình Chiểu Mỹ Tho học lớp đệ tam (lớp 10 ngày nay). Trong năm nầy tôi may mắn được học Việt văn với thi sĩ Thế Viên, tác giả Thi Tập “Người Yêu Tôi Khóc". Ngay đầu năm học nhà thơ đã giới thiệu Thi Tập đầu tay cuả Thầy cho môn sinh. Thi Tập “Người Yêu Tôi Khóc” và phong cách rất nghệ sĩ của Thầy đã gây cho tôi nhiều thích thú. Tôi cảm thấy thi nhân và thơ cũng có vẻ sống thực, gần gũi với mình thêm một chút! Bài “Người Yêu Tôi Khóc", chủ đề của tập thơ, làm tôi rất thán phục! Theo dư luận một số giáo sư và học sinh lớn thì động cơ chính của bài nầy là một hoa khôi nữ sinh con nhà giàu, học cùng một cấp (nhưng khác lớp) với Nàng Tiên của tôi! Tôi còn nhớ được mấy câu:
“Người yêu tôi khóc hôm qua,
Má hồng lệ nhỏ, tay ngà chìm sao!
Tóc trôi mây nước thuở nào,
Đem bao tâm sự mà trao ân tình
Tôi còn gối mộng thư sinh,
Nỗi riêng, riêng nghĩ một mình mà đau...”
(NYTK, Thế Viên)

Trong khi đó, Nàng Thơ học Trường Nữ Trung Học Mỹ Tho (2) đối diện ngay Trường Nguyễn Đình Chiểu của tôi, chỉ cách lòng đại lộ Hùng Vương mà thôi. Dường như Trời Phật cũng thương cảm cho mối tình si vô bờ bến của tôi nên đã cho tôi thêm một cơ hội kỳ thú: năm đệ nhất, chuẩn bị thi Tú Tài II, chúng tôi đều học cùng Ban B (Khoa Học Toán), chung môn Toán Hình Học với một giáo sư rất nổi tiếng là Thầy Trần Văn Ất. Thầy bắt buộc các lớp Đệ Nhất B hai trường trao đổi bài vở cho nhau để có thêm đuợc nhiều bài tập ôn thi. Tôi như trúng số độc đắc, được dịp danh chánh ngôn thuận thường xuyên lân la đến thăm Nàng Thơ ở nhà trọ theo lệnh của vị ân sư quá tốt bụng nầy!

Ngoài công ơn gián tiếp se duyên cho vợ chồng tôi, Thầy Trần Văn Ất còn tác động mạnh mẽ vào tâm hồn lãng mạn, thêm sức sống cho hồn thơ tôi bằng cách giới thiệu tác phẩm “Đời Phi Công” của Nguyễn Xuân Vinh (Lúc đó là Tư Lệnh Không Quân VNCH, người cùng có Bằng Tốt Nghiệp Toán Hình Học Cao Cấp ở Paris như Thầy, gửi tặng). Đây là những bức thư tình thực đẹp, thực trong sáng, thực lãng mạn, có lẽ chưa từng có trong Văn Học Sử Việt Nam mà rất nhiều thanh niên thời đó, các bạn tôi đã dùng gối đầu giường để “ăn cắp, cắt xén” thậm chí “sao y bản chính” để quyến rủ, dỗ ngọt các người đẹp!

Trong “Thi Nhân Việt Nam”, khi nhận xét về nhà thơ Lan Sơn, Hoài Thanh Hoài Chân đã buông một câu ngắn ngủi nhưng thật sâu xa đẹp tuyệt vời như thơ: “một buổi sáng kia, tình yêu đã đến với Lan Sơn và người học trò ấy bỗng thành thi sĩ” (Thi Nhân Việt Nam, Hoài Thanh Hoài Chân, Xuân Thu xb, CA/USA, tr. 83). Câu nói đó lần đầu tiên tôi được nghe ân sư Nguyễn Khắc Hoạch, Khoa Trưởng Đại Học Văn Khoa Sàigòn đọc khoảng năm 1962 nhưng hình như nó đã bất chợt lãng đãng gần xa đâu đây trong tôi từ rất lâu khi vừa biết mơ mộng thẩn thờ thao thức vì tà áo trắng học trò quá đơn sơ hiền dịu của Cô Bé Làng Bên, Nàng Thơ bé bỏng của tôi!

Bởi vậy tôi đã viết:
Hò hẹn hay không vẫn đợi chờ
Yêu em anh bỗng biết làm thơ
Xin thời gian giữ nguyên màu má
Để nghĩ rằng em chẳng hững hờ...
(Tình Tứ, L.Tâm)

Tôi thực không biết làm sao có được đầy đủ lời lẽ hay nhất, đẹp nhất, xứng đáng nhất tận đáy lòng để cám ơn Nàng! Giữa hai chúng tôi có một “nhịp cầu tri âm” rất vững chắc, rất đáng tin cậy là Ngô Bá Phước, người bạn thân cùng tuổi tác, cùng lớp, cùng trường, đồng thời lại là em họ của cả hai chúng tôi (Nàng gọi mẹ N.B. Phước bằng dì ruột. Tôi gọi ba N.B.Phước bằng chú họ!) Do đó, tôi đã may mắn có nhiều dịp gặp Nàng ở nhà N.B.Phước, đã từng ở trọ rất gần nhau bên bờ hồ Bến Tre thơ mộng, từng về quê cùng một chuyến xe, một chuyến đò, từng chào hỏi, chuyện trò... bâng quơ! Lúc còn ở Trung Học Công Lập Bến Tre, đôi lần N.B.Phước còn rủ tôi sang lớp “Chị Tư Luân” để mượn tập, mượn sách nữa! Hình bóng quá dịu hiền, đơn sơ, trong trắng, đẹp như tiên nửa thực nửa mơ của Nàng, không biết từ bao giờ, đã nhẹ nhàng đi sâu vào tâm hồn rất mong manh, rất lãng mạn của tôi! Tôi đã thao thức nhiều đêm, đã có những giấc mơ tuyệt vời như Nguyên Sa nói: “....Và nghe em ghé vào giấc mộng.... Vành nón nghiêng buồn trong gió đưa...” (Tương Tư, Nguyên Sa).

Từ đó, tôi bỗng nhiên biết làm thơ... tình học trò! Rất tiếc số thơ nầy đã thất lạc hết trong khói lửa. Có lần nhân đọc hai câu thơ của Nguyễn Bính:

Nhà nàng ở cạnh nhà tôi,
Cách nhau cái giậu mồng tơi xanh rờn!

Nghĩ đến hoàn cảnh mình, tôi liền bắt chước, nắn nót được hai câu mà chưa bao giờ dám khoe với Nàng Thơ:
Làng Nàng ở cạnh làng tôi,
Cách nhau vườn ruộng mưa rơi nắng buồn!

Tôi thực vô cùng hạnh phúc được tiếp tục học chung với Nàng tại Đại Học Văn Khoa Sàigòn với:
Hè sang phượng đỏ sân trường,
Thay màu áo mới tơ vương gót hồng!
...
Lối vào thư viện thân quen,
Dư hương còn đó êm đềm tiếng ai?
(Thẩn Thờ, L.Tâm)

Những hình bóng, cảnh vật thơ mộng êm đềm của quê tôi, những câu tục ngữ, ca dao, câu hò, điệu hát ru em, truyện cổ tích, Truyện Tàu đã nhập vào huyết quản tôi từ tháng ngày thơ ấu, nay có điều kiện thuận lợi nên đã hòa nhập rất dễ dàng vào khu vườn thơ văn, kinh sử muôn sắc muôn hương với quý vị Khoa Trưởng thực tài hoa, thừa tâm huyết như Giáo Sư Nguyễn Khắc Hoạch, Nguyễn Đăng Thục, quý ân sư nửa cổ nửa kim, nửa thực nửa thơ như Đông Hồ, Nguyễn Văn Trung, Vương Hồng Sển, Lê Ngọc Trụ, L.M Thanh Lãng, Trần Trọng San, Nguyễn Khắc Kham, Bửu Cầm, Nghiêm Toản, Nguyễn Đình Hoà, Phạm Thị Tự, Trần Quang Thuận, Trần Anh, Vũ Quốc Thông ...v.v...

Trong môi trường đó, tình yêu của chúng tôi cũng được lớn nhanh dù vẫn trong vòng lễ giáo truyền thống của hai gia đình:
"Mười năm chưa được cầm tay,
Đêm đêm mơ tưởng tiếng ai gọi mình...”
(Áo Bay, L.Tâm)

Chúng tôi đã sống trong những tác phẩm văn học nổi tiếng thời cổ điển, tiền chiến, hiện đại, những chuyện tình lãng mạn, những vần thơ, điệu nhạc trữ tình, những ray rứt về hoàn cảnh sống khó khăn của gia đình, về tương lai bấp bênh ảm đạm của bản thân và bè bạn, những đau đớn, dằn vặt kinh hoàng không nguôi của khói lửa chiến tranh càng lúc càng dữ dội ác liệt tàn phá quê hương hiền hoà, đốt cháy tan nát quê Mẹ khốn khổ dấu yêu…không gian an bình nương náu cuối cùng như thu hẹp quá nhanh chóng sững sờ! Nếu không có Nàng, chắc chắn tôi sẽ không có gì cả, thậm chí tôi cũng không còn là tôi nữa! Với Văn Khoa Sàigòn, chúng tôi đã dần đần hiểu rõ thế nào là sự cần thiết trong tình yêu, trong cuộc sống, đã “Nép vào nhau đỡ tủi thân...". Do đó, chúng tôi càng chăm chỉ học hành và đọc sách nhiều hơn nữa. Có lẽ Nàng đọc sách để học thi, để rộng tầm tri thức. Còn tôi thì đọc sách để kể chuyện cho Nàng nghe và cũng vì “thư trung hữu mỹ nử” (trong sách có người đẹp) như cổ nhân đã dạy!

Chỗ trọ thường xuyên của chúng tôi là Thư Viện Đại Học Văn Khoa Sàigòn, Thư Viện Quốc Gia, Tổng Thư Viện, các tiệm sách lớn như Khai Trí, Xuân Thu, các lề đường Lê Lợi, Lê Văn Duyệt, Trần Quý Cáp, các tiệm cho thuê, bán sách cũ... để tìm mua các sách báo cần thiết mà rẻ tiền! Chúng tôi thường thích đi thơ thẩn thả hồn vào bóng mát dịu hiền của Vườn Tao Đàn, Vườn Bách Thảo (Sở Thú), những đoạn đường thơ mộng yên tĩnh Nguyễn Du, Lê Thánh Tôn, Cương Để, Duy Tân, Trần Quý Cáp, Lê Văn Duyệt... Hình như hầu hết các đề tài chính của những buổi gặp gỡ, hẹn hò rất dễ thương bé nhỏ đó đều là thơ
văn và học hành thi cử mà thôi:
"Cười nói bâng quơ cũng ngọt ngào,
Bao lần ngơ ngác tưởng chiêm bao..."
(Một Chút Son Môi, L.Tâm)

Đó chính là niềm hạnh phúc thực đơn sơ nhưng cũng thực lớn lao đầm ấm tuyệt vời cuả chúng tôi trong thời gian rất dài! Tôi làm sao có thể quên được những phút giây thần tiên hư ảo cuối tuần được gặp Nàng ở phòng khách nhỏ bé của ngôi nhà trọ khiêm nhường, được hân hạnh đọc cho Nàng nghe rồi say mê diễn giải bằng tất cả tâm hồn mình những câu, những bài thơ tình bất hủ cuả Nguyên Sa, Xuân Diệu, Đinh Hùng? Mái tóc nghiêng nghiêng chấm vai, đôi mắt mở thật to như châm chú, thán phục, cho tôi biết bao mơ mộng tuyệt vời làm động cơ chính yếu nhất giúp tôi phấn đấu không mệt mỏi để vượt qua đoạn đường bút nghiên đầy gian khổ, trong điều kiện một thư sinh quá quê mùa, nghèo nàn, lạc lõng! Hết sức cám ơn Nguyên Sa đã gián tiếp buộc chặt thêm sợi tơ hồng cho vợ chồng tôi, đã nói hộ tôi:
"Gặp một bữa anh đã mừng một bữa,
Gặp hai hôm thành nhị hỷ của tâm hồn,

Em chưa nói đã nghe lừng giai điệu,
Em chưa nhìn mà đã rộng trời xanh,
Anh trông lên bằng đôi mắt chung tình
Với tay trắng em vào thơ diễm tuyệt"
(Áo Lụa Hà Đông, Nguyên Sa)

Năm 1967, khi mới vào học Ban Cao Học, Học Viện Quốc Gia Hành Chánh, vừa xuống đến Ba Xuyên (Sóc Trăng) để tập sự, tôi đã vội vàng đánh điện tín về cho Nàng Thơ vỏn vẹn có ba chữ “Anh Trông Lên” (lấy ý đoạn thơ vừa kể trên). Các bạn nữ sinh cùng nhà trọ đã tinh nghịch giành lấy bức điện tín, suốt cả giờ vẫn không tài nào “giải mã” được, cuối cùng đành phải trả
lại, xin Nàng Thơ “bật mí”! Nàng đã chìu các bạn sau khi được đền bù thiệt hại bằng một tiệc chè sâm bổ lượng! Trải qua bao nhiêu binh lửa, tang thương, đến nay Nàng vẫn còn giữ được nguyên vẹn bức điện tín quý báu đặc biệt để làm bằng chứng đánh dấu một giai đoạn cực kỳ lãng mạn, đầm ấm, nồng nàn tuyệt vời của chúng tôi! Chúng tôi chỉ đơn sơ như vậy thôi! Cho nên tôi đã viết:
Anh chẳng biết đàn, chẳng biết ca,
Đọc thơ thiên hạ để làm quà
Cho em những lúc em không giận...
Em cũng mừng vui, cũng thiết tha!
(Liêu Trai, L.Tâm)

Thời gian nầy, có lẽ hồn thơ trong tôi đã được chấp cánh đến tận chín tầng mây xanh! Nhưng hầu như tôi không dám làm thơ. Vì mỗi khi cầm bút lên, mới lựa được một từ, một ý tạm xem là được thì nhận ra đã có người khác viết rồi mà còn hay hơn mình rất nhiều! Tôi giật mình, tự hổ thẹn, cụt hứng!

Phút giây đó cho tôi vô cùng đồng cảm với Lý Bạch khi Ông đến viếng Hoàng Hạc Lâu định đề thơ kỷ niệm, chợt trông thấy đã có bài thơ bất hủ của Thôi Hiệu rồi: Lý thi tiên cũng đành mang bút đi tìm chỗ khác thôi!

Thực ra, thỉnh thoảng khi có nhiều xúc cảm vui buồn nơi gác trọ nửa khuya, tôi cũng có làm ít bài ghi vào nhật ký riêng mà cho đến khi cưới nhau rồi vẫn còn chưa dám khoe với Nàng Thơ hiền ngoan của mình! Ngày 6-9-1964, nhân một hiểu lầm nho nhỏ, tôi đã “lén giận” Nàng, nên có mấy dòng thơ... thất tình:
Nghìn năm đất lạnh ra đi,
Con tàu vĩnh biệt không ghi lối về!

Hay là lo sợ, dặn dò, năn nỉ:
Đừng mộng ngoài vòng tình yêu anh,
Màu má màu môi nhớ để dành,
Đêm đông đừng ngủ quên... cười đẹp
Mà ở trong lòng em vắng anh!

Có bốn câu tôi đã làm vì xúc động thấy Nàng Thơ mang đôi bao tay màu xám của tôi tặng nhân dịp Nàng mới mua chiếc Vélo Solex. Tôi đã ghi vào trang đầu quyển Luận Văn Tốt Nghiệp Cao Học Hành Chánh:
Ngày không gặp dài như thân áo mới,
Vướng guốc nhung làm tội gót chân hồng,
Gants tay xám như muà thu đứng đợi,
Những chiều mưa đi học lạnh đau lòng! (3)

Năm 1970, khi thành hôn xong, thỉnh thoảng vợ tôi hay nhắc tôi thử làm thơ, viết văn nhưng vì sinh kế, phải lo lắng phụ giúp gia đình Cha Mẹ, anh chị em hai bên mà sinh hoạt đang gặp quá nhiều khó khăn bởi chiến tranh càng lúc càng ác liệt khắp thôn quê, phải tản cư sống vất vưởng nơi vùng ngoại ô Bến Tre. Tâm hồn tôi trở nên bất an, mệt mỏi không làm được bài nào xem ra hồn. Sau biến cố tháng 4, 1975, bị đày đọa khổ sai biệt xứ trong ngục tù bạo quyền, trong điều kiện vô cùng nghiệt ngã dở sống, dở chết, tôi không thể và cũng không còn đủ sức để thơ thẩn gì nữa! Tuy vậy, trong những đêm dài “lửa cơ đốt ruột dao hàn cắt da” (Cung Oán Ngâm Khúc), co rút trong tấm chăn rách nát vừa chiến đấu ác liệt với lũ rận rệp cũng quá đói rét như mình, vừa tìm mọi cách chống chọi với luồng gió mùa Đông Bắc lạnh quái ác vô tình, không tài nào chợp mắt được, hình ảnh vợ yếu con thơ vẫn là những liều thuốc tiên nhiệm mầu nhất để giúp tôi hy vọng, phấn đấu sống còn! Tôi phải “lặng lẽ, lén lúc, âm thầm” ghi lại chút xúc cảm thực đau xót:
...
Vẫn thiếu anh mà vẫn có anh,
Áo nào con đắp suốt năm canh?
Trong từng giây phút, từng câu nói,
Em dạy cho con sống thơm lành!

Con nói ngây thơ: em cũng vui,
Mà lòng thương nhớ anh không nguôi,
Trong con cũng có anh âu yếm,
Em vẫn thương yêu nhứt tiếng cười!
(Nguồn Sống, 04-05-78 L.Tâm)

Đó cũng chỉ là một cơn mơ bé nhỏ mong manh nổi trôi trong một góc trời cổ tích thanh bình của kiếp nào xa xôi mơ hồ mà thôi! Trong khi thực tế, vợ con tôi đang dần dần chết khô chết héo nơi điạ ngục trần gian:
Vợ con còn chút da bọc xương,
Bữa cháo, bữa rau, muối pha tương,
Còng lưng cày cuốc trồng khoai sắn,
Tóc cháy, da sần, áo gió sương!
(Tủi Thân, L.Tâm)

Đến khi được ra khỏi nhà tù nhỏ thì lại bị rơi vào cái nhà tù khổng lồ khác với đủ loại rình rập, khủng bố, đe dọa, kỳ thị, cô lập tinh vi, tàn bạo nhất. Cũng như đa số bạn bè, các đồng bào sa cơ thất thế, tôi chỉ còn như một hồn ma bóng quế dật dờ:
Ta như ma đói, như lục bình,
Trôi nổi dật dờ chết lặng thinh,
Con ong, con kiến còn lên mặt,
Giả điếc, giả câm dấu bất bình!
(Tủi Thân, L.Tâm)

Do đó, chỉ còn biết:
Van nợ lắm khi trào nước mắt,
Chạy ăn từng bữa toát mồ hôi"
(Tú Xương)

Trong hoàn cảnh đó, hồn người cũng không còn nói chi hồn thơ! Đến cuối năm 1994, lúc mới sang định cư tại Hoa Kỳ, giống như con cá đang sống ở sông hồ nước ngọt bị quăng vào biển nước mặn, tôi thực bàng hoàng lo sợ cho tương lai của vợ con mình hơn là vui mừng vì được tự do:
Xứ người lạ cỏ, lạ cây,
Lạ ăn lạ uống, đêm ngày trở trăn!
Ta như hạt cát sông Hằng,
Mênh mông trong đục cũng bằng sắc, không!
Trong vòng trời đất mênh mông,
Đất lành chim đậu mà lòng chưa yên!
Cũng may còn có vợ hiền,
Ba con hiếu thảo, tạm quên lưu đày!
(Đường Trần, L.Tâm)

Với thời gian, những xúc cảm, chơi vơi hụt hẫng đau xót cho thân phận bọt bèo, nỗi nhớ thương quê hương làng xóm, mồ mả Cha Mẹ, Tổ Tiên cũng trở lại vị trí cân bằng, bão hòa. Rồi niềm hy vọng cho tương lai các con, chút không khí an bình tự do, chút tình người ấm áp của mảnh đất lành nầy... dần dần làm tôi cảm thấy được phần nào yên ổn trong tâm hồn vốn “rất thảo mộc", rất yếu đuối, quê mùa cuả mình! Từ đó, thi hứng lại len lén thức dậy nhẹ nhàng, êm ái trong tôi! Những ngày sáng chiều lang thang đón đợi xe bus đi, về, làm một công việc tuy tầm thường nhưng tương đối nhàn hạ vừa với tuổi già sức yếu, tôi lại bắt đầu gắn bó với thơ và cũng không khỏi ngậm ngùi cho thân phận nổi trôi của mình.
Lỡ quan, lỡ thợ, lỡ thầy,
Mưa hay lệ tiếc hình hài sắc, không?
(Lẻ Loi, L.Tâm)

Những bài thơ đầu tiên trong kiếp tha hương, tôi chỉ dám khoe với Nàng Tiên (mắc đọa), các con hiếu ngoan của mỉnh và người bạn hiền tri kỷ tri âm Nguyễn Điền Thạnh đang nghìn trùng xa cách ở Việt Nam mà thôi! Đầu xuân 1999, vừa dọn vào ngôi nhà mới có sân cỏ non phía trước, phiá sau, hoa anh đào nở rộ khoe duyên thực đẹp, thực mong manh, hiền dịu, đầm ấm, thanh cao dễ thương vô cùng, theo yêu cầu của con gái út Minh Thư, tôi đã “khai bút” bài “Vẫn là Thơ":
Mua nhà nào dám đòi hoa,
Trời thương: đào mọc trước nhà, sau sân!
Ngày vui hoa nở mừng xuân,
Nhớ chàng Từ Thức hai lần tìm tiên!
Biết đâu nợ, biết đâu duyên?
Mình nay lạc lối đào nguyên ai ngờ?
Tha hương: đời vẫn là thơ,
Đất lành chim đậu, hoa chờ đợi ta!

Nàng Thơ và ba con đều thích thú, khen lấy, khen để: thực đúng là “chồng hát vợ vỗ tay, cha hát con khen hay!"

Được trớn, lúc rảnh rang, tôi thường nắn nót thêm một số bài nữa. Mỗi ngày đi làm về, trong bữa cơm tối, có bài nào, câu nào mới, tôi đều đọc cho vợ con nghe để xin phê bình, góp ý. Vợ tôi vui lắm, thường chọn cho tôi nhiều chữ rất hay, đẹp, có khi còn cho bài thơ một cái tựa rất thích hợp, rất lãng mạn nữa! Những lúc đó lòng tôi vô cùng xúc động hạnh phúc, ấm áp tuyệt vời! Khi tôi đọc bài “Phong Trần” đến đoạn:
"...Thì thôi...hết mộng hết mơ,
Hết cơm, hết gạo, dật dờ nổi trôi!
Tiếng cu vẫn gáy bồi hồi,
Khu rừng Long Khánh một thời gác cu:
Thương con chim nhỏ hiền từ,
Tiếng kêu, tiếng gáy ngỡ như thanh bình!
Nước trong, mây trắng, trời xanh
Cũng không ngăn được chiến tranh, hận thù!
Xuân nào trời đất âm u,
Núi xương, sông máu, tội tù khổ dân ..."

thì Nàng Thơ vội ngắt ngang bằng một tràng pháo tay giòn giả, rồi thỏ thẻ rót vào tai tôi: “Trời ơi! Anh làm thơ ngày càng hay quá, em thích quá... anh cố gắng nữa đi để dành lại chút quà kỷ niệm cho con cháu, người thân, bạn bè...” Tôi phồng cả mũi tưởng có thể bị vỡ tung ra được! Làm sao tôi có thể dám trái cái “lệnh” quá êm ái, quá tình tứ dễ thương đó? Nhưng thời gian nầy, tôi cũng chưa có được bao nhiêu bài đáng nhớ!

Cuộc sống đang êm đềm thơ mộng, bỗng một tai họa thực khủng khiếp xảy ra cho gia đình tôi đúng ngày 11-09-1999, một năm trước vụ khủng bố New York và Ngũ Giác Đài Mỹ. Vợ tôi bị tai biến mạch máu não rất nặng tưởng không thể nào qua khỏi được! Tôi như chết chửa chôn. Các con tôi như ma đói, như lục bình thực sự rồi!

Ngày xưa, Ông Hàn Dũ, một nhà phê bình rất nổi tiếng đời nhà Đường bên Trung Hoa, có nói: “Vật bất đắc kỳ bình tắc minh” ! Cũng vì thế, trong lời tựa nguyên bản chữ Hán truyện ngắn Kim Vân Kiều, tác giả Từ Văn Trường (4) đã viết một câu bất hủ nói lên nỗi bi phẩn tột cùng của mình để giải thích lý do khiến ông phải ghi chép lại câu chuyện thực quá thương tâm nầy:
"Thúy Kiều dĩ tử, Thanh Đằng lão,
Hận hải mang mang, hựu nhất thanh!"
(Thúy Kiều đã chết rồi, Thanh Đằng quá già yếu,
Bể hận quá mênh mông nên phải kêu to lên một tiếng!)

Phải chăng cả hai câu trên đều nói lên, phản ảnh được cái tâm trạng tôi, cái hồn thơ quá bi thảm của tôi thời gian từ khi vợ tôi, gia đình tôi bị lâm vào hoàn cảnh hết sức khốn đốn, dở sống dở chết nơi xứ lạ quê người tứ cố vô thân? Cho đến nay dù được chạy chữa tận tình, chồng con hết lòng hết sức chăm sóc bằng sự hiếu thảo, tình nghĩa mà nhiều người quen biết còn tưởng là chỉ có trong các truyện cổ tích, đời xưa thôi, vợ tôi vẫn phải ngồi xe lăn, nói năng rất ít, rất khó, trí nhớ bị mất rất nhiều, không thể tự chủ sinh hoạt tối thiểu được. Khi ở bệnh viện, nursing home về, vợ tôi vẫn còn mang hai ống nhựa ở cổ và bụng! Hơn năm sau vẫn còn lửng đửng, lờ đờ, nửa tỉnh nửa mê! Tôi còn tệ hơn gà trống nuôi con! Cha con tôi đã tìm đủ mọi cách đánh thức cái trí óc thực thông minh, sáng suốt, cái giọng nói thực ngọt ngào, dịu dàng như chim hót đó, cái nụ cười thực ngây thơ, duyên dáng, thực tình tứ, thực như tiên đó... nhưng tất cả hầu như đều hoài công, tuyệt vọng! Cho đến một hôm, tình cờ tôi đọc cho Nàng nghe mấy câu trong bài “Tương Tư” của Nguyên Sa:
"Có phải em mang trên áo bay,
Hai phần gió thổi một phần mây,
Hay là em gói mây trong áo,
Rồi thở cho làn áo trắng bay?"

Bỗng nhiên, như một phép lạ, Nàng Thơ quá mong manh khô héo, xác xơ cuả tôi đã bật cười thành tiếng thực vui, thực tuyệt vời như những ngày xưa lúc “Dù thương hôn tóc, khăn lau má... Ấm cả bàn chân, ấm cả tay...” (Làm Tiên, L.Tâm). Cha con tôi vội ôm chầm lấy Nàng mà khóc nức nở vì niềm vui quá lớn đến bất ngờ! Con gái út Minh Thư liền nói “Ngày xưa Ba Mẹ đã học chung Văn Khoa, câu chuyện giữa hai người đều toàn văn thơ, nhứt là thơ Nguyên Sa, làm sao Mẹ có thể quên hết được. Vậy, từ nay, Ba nên ráng đọc những bài thơ mà Ba đã từng đọc cho Mẹ nghe và Mẹ thích nhất, chắc chắn Mẹ sẽ vui hồi phục được!”. Tôi rất đồng ý với đứa con cưng hiếu thảo, rất mực thông minh nầy. Do đó, khi được ru trong những bài thơ tình đầy kỷ niệm ngọt ngào cuả hai đứa thời cùng trường, cùng lớp, cùng sách, vợ tôi dần dần được thuyên giảm một phần, trí óc có khá hơn đôi chút. Một hôm Minh Thư lại thỏ thẻ “ Ba đọc thơ Nguyên Sa, Xuân Diệu, Đinh Hùng cho Mẹ nghe đã có hiệu quả tốt rồi. Nhưng con nghĩ nếu chính Ba làm thơ nhắc lại những kỷ niệm hoa mộng êm đẹp của Ba Mẹ, an ủi Mẹ, thế nào Mẹ cũng thích và vui nhiều hơn nữa."

Tôi rất cảm động khen ngợi suy nghĩ hợp lý, chu đáo của con nhưng rồi lại hẹn lần hẹn hồi mãi vì quá bận rộn: vừa lo chăm sóc vợ bệnh vừa phải lo quán xuyến nhà cửa cơm nước cho các con nhỏ suốt ngày đi học, đi làm rất vất vả.

Một chiều cuối tuần, trong lúc Minh Thư cho Mẹ ăn cơm, tôi đọc 4 câu thơ:
"Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu,
Đợi gió xuân về để lả lơi,
Hoa lá ngây tình không muốn động,
Lòng em hồi hộp chị Hằng ơi!”
(Hàn Mặc Tử)

Minh Thư rất ngạc nhiên vì cháu chưa hề nghe qua. Tôi phải giải thích, kể sơ tiểu sử Hàn Mặc Tử cho con biết. Minh Thư lại khuyến khích tôi làm thơ: “So với Hàn Mặc Tử, Ba còn đỡ khổ hơn nhiều. Ba nên cố làm thơ cho Mẹ vui, để dạy con học tiếng Việt, để Ba có chỗ giải trí... Con thường nghe người ta nói rằng khi một người không còn hy vọng gì, thú vui gì cả thì không thể sống được! Nay Ba đã bỏ hết rượu, thuốc lá, bia, cà phê, trà, bỏ cả tiếng cười rất giòn, rất hào sãng cuả Ba rồi... Ba phải làm thơ để bù vào chỗ trống đó, nếu không, con sợ lắm! “ Nghe những lời con trẻ rót vào lòng, tôi không cầm được nước mắt! Vợ tôi khóc theo! Từ đó, mỗi cuối tuần, ngày lễ, Minh Thư đều quanh quẩn ở nhà, dành hết mọi việc chăm sóc Mẹ, nấu nướng để Ba rảnh rang làm thơ! Cháu còn lo đánh máy sạch bản thảo, email gửi bài liên lạc với các bạn thơ của tôi nữa. Anh Chị cháu cũng tích cực phụ lo hết mọi việc trong ngoài. Tôi rất vui, rất yên tâm. Do vậy mới có được một số thơ Luân Tâm!

Thế nhưng Luân Tâm là gì? Xin thưa: Luân là tên của vợ tôi (Bùi Thị Luân). Tâm là lòng. Cả hai chúng tôi có chung một tâm hồn, một tấm lòng. Do đó thơ tôi cũng chính là tâm hồn của Nàng dành cho tôi và các con, là tình yêu thương vô bờ bến của tôi dành cho Nàng, Nàng Tiên mãi mãi đẹp tuyệt vời, người vợ
hiền “vượng phu ích tử” mà nhiều lần tôi đã phải ngạc nghiên tự hỏi:
Tu bao nhiêu kiếp anh mới được,
Thơ thẩn cùng em kể chuyện lòng ?
(Một Chút Son Môi, L.Tâm)

Tôi đã nghẹn ngào, âu yếm van xin:
Em ơi! Em vẫn là tiên nữ,
Đừng bỏ anh đi lạnh một mình!
(Tình Tứ, L.Tâm)

Chữ Tâm cũng là tên mà ân sư Thi Sĩ Đông Hồ đã đặt cho tôi khi mới vào Đại Học Văn Khoa Sàigòn. Thấy tôi quê mùa, hiền lành nhưng rất chăm học, Thầy rất thương quý, nói rằng tên Tám có vẻ không được thanh nhã! Thầy chỉ thêm cho một nét dấu nhỏ thành ra chữ Tâm. Văn Tâm là tấm lòng trong sáng “rất thích hợp với nhân cách của con mà cũng đẹp lắm!”... Thực ngậm ngùi... “Đời người như kiếp phù du... sớm còn tối mất, công phu lỡ làng!” (Ca Dao). Mới ngày nào... có những buổi chiều nhạt nắng, Thầy Đông Hồ ân cần tiếp tôi tại ngôi biệt thự yên tĩnh ở ngoại ô Gia Định, nơi chiếc ghế trường kỷ cổ kính, bên cạnh búp trầm hương hình trái núi khói tỏa nhè nhẹ thơm ngát mơ màng, nửa thực nửa tiên! Giọng nói của Thầy như thơ, nét chữ rồng bay phượng múa trôi nhẹ bồng bềnh trên tờ giấy đỏ để phút chốc đã thành đôi câu đối thực trang nhã, thâm thúy, hoặc trên các tờ giấy trắng muốt để hóa ra các bức “thư họa” độc đáo tuyệt vời, có điểm thêm ít cành mai, cành đào hay phong lan mềm mại, cao sang, thoát tục!

Xin phép được nói thêm: trong hoàn cảnh bi đát quá ngặt nghèo của riêng mình, từ khi vợ tôi lâm bạo bệnh, tôi đã cắt đứt hết mọi liên lạc với thế giới bên ngoài, cố dành chút hơi tàn sức kiệt để có thể toàn tâm toàn ý lo chăm sóc Nàng và thay Nàng nuôi dạy

ba con thơ. Nhiều khi có chuyện buồn khổ xảy ra cho gia đình, các người thân yêu ruột thịt, bạn thiết xa gần, tôi đều phải đành giấu kín riêng trong lòng, sợ vợ tôi hay biết có hại cho bệnh tình “Điệu buồn anh giữa riêng anh... Điệu vui anh vẫn để dành cho em!” (L.Tâm). Nhìn trước, nhìn sau, không ai có thể chia xẻ, tâm sự những xót đau, bi phẩn vô bờ bến ! Do đó, tôi càng có nhu cầu bức thiết đến với Thơ như một cách thế, một nơi chốn để giải tỏa bớt những suy tư, tình cảm đang oằn oại không lối thoát, một cách tự an ủi, tự kể lể hàn huyên với đôi chút ước mơ thực bé nhỏ mong manh...

Mỗi khi làm thơ, đọc lại thơ mình, tôi luôn luôn tự thấy hổ thẹn vì còn quá non kém, không bao giờ dám tự hài lòng! Tôi vẫn tự biết mình đã quá quê mùa, hủ lậu, “ếch ngồi đáy giếng” nên lại càng thêm phân vân, e ngại! Tôi thường hay giật mình lo sợ nhớ lời dạy của cụ Tú Xương: “Văn chương nào phải là đơn thuốc(?)... Chớ có khuyên xằng: chết bỏ bu!".

Chính vì thế, các bài thơ vì thương vợ, thương con, thương Cha Mẹ, bè bạn, làng quê, kỷ niệm vui buồn, thương thân tủi phận mình mà hình thành được, tôi chỉ dám đọc cho vợ con nghe mà thôi! Mãi cho đến năm 2005, bệnh tình của vợ tôi có vẻ đỡ hơn được đôi chút, các con tương đối trưởng thành hơn phần nào, tôi đã gửi ít bài cho anh Lê Văn Bỉnh đăng vào Tạp Chí Hành Chánh Miền Đông của Hội Cựu Sinh Viên Quốc Gia Hành Chánh Miền Đông Hoa Kỳ. Kế đó, quý anh Lê Văn Bỉnh, Dương Quân, Nguyễn Ngọc Liên đã rủ tôi tham gia vào “Tuyển Tập Thơ Quốc Gia Hành Chánh “ (5) . Cũng trong thời gian nầy, anh Dương Quân, vì mối đồng cảm sâu xa, tình đồng môn tốt đẹp đã giới thiệu thơ tôi lên website Diễn Đàn Cựu Sinh Viên Quốc Gia Hành Chánh ĐS14. Từ đó, tôi được quen thêm một số đồng môn bạn văn thơ rất quý đã tích cực an ủi, nâng đỡ, khuyến khích tôi như quý anh Vũ Công Hùng (Mao Tôn Hùng Vũ, Webmaster website ĐS14) Lan Đàm, Trần Kiêu Bạc, Nguyễn Đình Đức, Nguyễn Bửu Thoại & Ngọc Sương, Phạm Thành Châu, Trương Thúy Hậu, Nguyễn Thế Vĩnh, Nguyễn Trọng Đạt, Nguyễn Phụng, Lâm Thanh (Lâm Thành Hổ), Nguyên Trần (Nguyễn Tấn Phát), Trần Bạch Thu, Hoàng Hoa, Lãm Thuý, Như Thương...v.v... Những ân tình đó tôi không bao giờ dám lãng quên.

Đặc biệt, tôi còn may mắn được quen thân một bạn láng giềng rất tốt bụng, hiền hoà, nho nhã, một bực thầy là thi họa sĩ Vũ Hối. Anh đã tốn nhiều công sức, thì giờ quý báu để hướng dẫn, vẽ tranh bìa, thư họa phụ bản, cảm đề thơ & thư họa tặng cho Thi Tập. Nếu không có sự giúp đỡ vô cùng quý báu đó, chắc chắn tôi không thể nào khai sanh được đứa con tinh thần đầu lòng của mình!

Rốt cuộc tôi cũng đã vượt qua được rất nhiều khó khăn khách quan và chủ quan... Sau thời gian ngại ngùng, đắn đo, ray rứt, nhìn bóng chiều tàn mùa đông đất khách quê người, không khỏi xót xa ngậm ngùi... vì tấm lòng ưu ái của vợ con, thân hữu xa gần, tôi đành thử liều “ăn gan hùm, uống mật gấu” gom góp, chọn lọc một số thơ có vẻ ít thô thiển nông cạn nhất, sửa chữa, sắp xếp tạm thành “Hương Áo” như chút kỷ niệm, chút quà mọn cho người thân và bạn thiết... thế thôi! Nếu may mắn có thêm được độc giả nào, vì yêu tiếng mẹ đẻ, không nỡ chê bai, thương để mắt xanh đến, thì thực là “tam sinh hữu hạnh” cho tôi vậy!

Cuối cùng, xin cho phép tôi được gởi lời cám ơn chân thành nhất, trân trọng nhất đến tất cả quý độc giả đã chịu khó dành chút thì giờ quí báu để thăm viếng khu vườn thơ mong manh, nghèo nàn, bé nhỏ, quê mùa và rộng lượng có chút đồng cảm với những mảnh hồn tuy vụn vặt, non nớt nhưng rất chân thành của tôi!

Maryland ngày 19 tháng 11, năm 2006.

Thân kính,

LUÂN TÂM


Ghi Chú:

1) Câu nầy có ghi trong bài tựa quyền “Hồi Ký Năm Mươi Năm Mê Hát” của Thầy Vương Hồng Sển.
2) Sau đổi tên là Trường Lê Ngọc Hân, Mỹ Tho.
3) Phan Văn Tám, “Thẩm Quyên Tổng Thống Đệ Nhị Cộng Hoà Việt Nam", Luận Văn Tốt Nghiệp Ban Cao Học Khóa 3 Học Viện Quốc Gia Hành Chánh Sàigòn, 1969.
4) Từ Văn Trường còn có bút hiệu khác là Thanh Tâm Tài Nhân, Thanh Đằng. Ông là người tình cũ ở ngoài đời thật của Thúy Kiều. Ông vô tình (không rõ gian kế) giúp Tổng Đốc Hồ Tôn Hiến, xúi giục Thuý Kiều thuyết phục Từ Hải chịu qui hàng, bị chết thảm thương! Ông thực sự muốn giúp Thúy Kiều có được cuộc sống yên ổn lâu dài mà hóa ra haị nàng! Về sau Ông quá phẩn uất, quá đau khổ phát cuồng: tự chọc thủng tai, làm mù mắt mình! (Theo Giảng Văn “Nguồn Gốc Truyện Kiều” của Giáo Sư Bửu Cầm, Đại Học Văn Khoa Sàigòn 1962).
5) Tuyển Tập Thơ Quốc Gia Hành Chánh, Hoài Bảo Quê Hương xb, California, USA 2005.

Luan Tam
Transistor
Posts: 28
Joined: 23 Jan 2008 19:21

Re: Hương Áo và thơ LuânTâm

Postby Luan Tam » 04 Feb 2008 03:36

Đổi Đời


Rong chơi năm tháng đổi đời
Cổng tù giông bão cổng trời khói sương?
Sử kinh đốt chẳng hết hương
Trần gian địa ngục đoạn trường còn nguyên?
Chiều tàn mộng chửa bình yên
Nước xuôi gió ngược đảo điên sao đành?


LuanTam
MD 09/25/06

Luan Tam
Transistor
Posts: 28
Joined: 23 Jan 2008 19:21

Re: Hương Áo và thơ LuânTâm

Postby Luan Tam » 04 Feb 2008 03:37

lưu lạc


Người xưa còn có bóng trăng theo
Ta chỉ còn đây chút nắng chiều
Gió bụi xác xơ không quán trọ
Ngựa xe xa vắng nẽo cô liêu!

Gắng gượng mà đi hết dặm hồng
Mai sau còn lại dấu chân không?
Có loài hoa dại nào thương xót
Xin giữ giùm ta chút nắng trong!

Đã mấy lần đi, mấy lần sầu
Hẹn hò còn đến tận kiếp sau
Thuyền hoa cặp bến không ai đón
Có phải vô duyên tự kiếp nào?

Còn chút mây hồng áo tương tư…
Để dành mai mốt gửi người xưa
Chân trời góc biển dù lưu lạc
Cũng được nâng niu chút hương thừa!

Nếu có qua đây, xin khóc giùm
Mưa nào kỷ niệm áo choàng chung?
Nắng nào nghiêng nón hôn dòng tóc?
Yêu đã thiên thu... vẫn thẹn thùng!

Rồi cũng biệt ly, cũng tiễn đưa
Con đường hò hẹn trả gió mưa!
Trăng sao thêu áo, mây se tóc
Hoa cỏ ngậm ngùi theo dấu xưa!

Nếu chẳng cùng đi, chẳng cùng về...
Giữ giùm chút kỷ niệm đam mê!
Để dành kiếp khác làm mai mối
Mà nhận ra nhau vẹn ước thề!

LuanTam
MD 05/04/02

Luan Tam
Transistor
Posts: 28
Joined: 23 Jan 2008 19:21

Re: Hương Áo và thơ LuânTâm

Postby Luan Tam » 04 Feb 2008 03:40

Áo Bay


Tưởng mây gọi áo trắng về
Nào hay mây lỗi hẹn thề... trốn ta!
Chiều đông áo tím hoa cà
Nhởn nhơ trước ngõ làm quà tương tư!
Hồn run theo gót tiểu thư
Trời buồn mây xám mà mưa không đành!
Hôm nào nắng đẹp trời xanh
Thay màu áo trắng để dành ai khen?
Mơ màng khi lạ khi quen...
Tóc bay với áo còn ghen môi hồng
Nhìn nhau được mấy mùa đông?
Chờ nhau cuối bãi, đầu sông sương mờ
Hẹn hò trên những dòng thơ
Run run mực tím còn ngờ chiêm bao
Trễ đò mới biết thương đau
Người qua chuyến trước chuyến sau đoạn trường
Phù sa thương ruộng, nhớ vườn
Cùng chung dòng nước, đôi đường song song
Xác xơ chín nhớ mười mong:
Quên ăn, quên uống mà không quên người
Thướt tha, yểu điệu, cười cười...
Làm duyên nũng nịu hoa tươi thẹn thùng
Người đi mang cả mùa xuân
Đất trời lạnh lẽo xác thân đọa đày...
Mười năm chưa được cầm tay
Đêm đêm mơ tưởng tiếng ai gọi mình
Thương thân, tủi phận nòi tình
Cũng may còn được cho nhìn áo bay!


LuanTam
MD 05/05/02

Luan Tam
Transistor
Posts: 28
Joined: 23 Jan 2008 19:21

Postby Luan Tam » 11 Feb 2008 01:11

Nét Nhỏ Vào Thơ Luân Tâm



Trong những ngày chót còn lại của năm 2007, rất bận rộn để chuẩn bị cho một chuyến đi xa, bỏ lại sau lưng bao nhiêu gút mắt của cuộc sống nhàm chán trong đời sống hàng ngày, tôi hân hạnh được đọc bài giới thiệu tác phẩm Hương Áo của nhà thơ Luân Tâm do anh Lâm Thanh gửi sang từ Úc Châu.

Thú thật tôi cũng vừa được làm quen với nhị vị Luân Tâm và Lâm Thanh cách đây vài tháng thôi, nhưng tôi đã dành cho nhị vị một ngưỡng mộ đặc biệt.

Vốn có tính “Kiêu Kỳ” thường tình cùa Nữ Phái hình như tôi chưa bao giờ viết thư làm quen bất cứ ai trong giới nam tử. Nhưng tôi đã rụt rè gửi điện thư đến anh Lâm Thanh sau khi đọc những bài văn “Miệt Vườn” do anh sáng tác với bút hiệu là Hai Quẹo trong đặc san Trà Vinh. Là một cô gái nhà quê xuất thân từ Trà Vinh, tôi như con cá mắc cạn trong cái xứ xa xôi hẻo lánh đầy “Tuyết” và “Sương Mù” thuộc Tiểu Bang Ohio.
Đọc những bài anh viết, rất lôi cuốn và “đặc sệt” Nam Kỳ tôi như được thả về ao rạch thân yêu, bơi lội trong vủng trởi kỷ niệm của tuổi thơ trong trắng.

Qua bút pháp của anh, tôi hình dung một anh nông dân Hai Quẹo, hiền như cục đất, thiệt thà, có sao nói vậy, môt bản chất dễ thương của người dân miền Lục Tỉnh. Nhưng qua Luân Tâm, tác giả của tập thơ Hương Áo, tôi mới biết Hai Quẹo chính thật là “Lâm Thành Hổ ,cưụ sinh viên Quốc Gia Hành Chánh ,Đốc Sự khoá 15. Anh là một cây bút trẻ rất có phong độ đặc biệt ,một bản lỉnh khác thường ,cho dù vì hoàn canh sinh sống quá khắc khe ,không có thì giờ nên viết rất ít ,cũng đã tự xác định được cho mình một chỗ đứng khá vững chắc trong lòng độc giả chọn lọc rồi.”

Hôm nay tôi lại có diễm phúc đọc qua bài giới thiệu cùa Lâm Thanh cho Hương Áo.

Vói tựa đề Hương Áo, Lâm Thanh đã nghĩ ngay đến hai câu thơ của vua Tự Đức:

“Đập cổ kính ra tìm lấy bóng
Xếp tàn y lại để dành hơi”


Còn tôi thì lại liên tưởng đến hai câu ca dao của Miền Tây Nam Phần:

“Chim Quyên ăn trái nhản lồng
Thia lia quen chậu vợ chồng quen hơi”


Qua vài trao đỗi điện thư, và thưởng thức các bài thơ anh sang tác, tôi có cảm tưởng Luân Tâm vừa có nét trửu tượng khó hiểu của Họa Sĩ Picasso mà lại có màu sắc sặc sở, đậm nét đau thương của Van Gogh. Và hình như phê bình gia Lâm Thanh cũng ghi nhận như vậy.

Tình yêu của Luân Tâm dành cho hiền thê qua Hương Áo đưa tôi về một chân trời xa thẳm của tuổi mười lăm, mười bảy khi đôi trẻ đã lỡ:

“Thương nhau cỡi áo trao nhau
Về nhà dối mẹ qua cầu gió bay”


Tôi chưa có dịp để đọc qua 360 trang của tập thơ Hương Áo của thi sĩ Luân Tâm, nhưng qua bài giới thiệu của Lâm Thanh, tôi đã dành một cảm tình sâu đậm cho tập thơ qua bốn câu:

Lang thang tìm lại dấu bụi đường
Em mới dẫm lên còn dễ thương
Nhặt lên âu yếm cho vào túi
Mà ngỡ ngọc ngà ngỡ sắc hương..

(Như Mây Hồng, tr. 117)


Ngày mai tôi lên đường về một chốn xa. Một nơi mà tôi có thể nằm lim dim trên võng dưới tàn cây nhiều bóng mát để đọc thơ, nghe nhạc và mơ đến “Cuối Bờ Viễn Du” nơi “Ta ru người ngủ áo bay thẩn thờ.”

Vũ Thi An

Luan Tam
Transistor
Posts: 28
Joined: 23 Jan 2008 19:21

Re: Hương Áo và thơ LuânTâm

Postby Luan Tam » 11 Feb 2008 01:13

đỡ tủi thân

Nép vào bụi chuối khóm tre
Thương đôi cánh bướm quanh hè cuối sân
Tình sầu nương náu gót chân
Tình ngoan dỗ giấc thật gần... thật xa!
Người ở trọ kẻ không nhà
Sao không chung giấc mơ hoa muộn màng
Sao đành vội vã sang ngang?
Mang theo tất cả nắng vàng trời xanh
Lá non hoa trắng mong manh
Ngây thơ còn chút an lành khói sương
Chân phố thị mắt ruộng vườn
Còn vầng trăng cũ tơ vương nghĩa tình?
Bao giờ cho gặp? Cho nhìn...
Đất trời ghen thấy... chúng mình yêu nhau
Nước đâu còn để tưới trầu
Vườn rau vườn cải năm nào cháy khô?
Giọt sương bé bỏng đợi chờ,
Miệng khô lưỡi đắng còn mơ mưa dầm
Náu nương vào cõi xa xăm
Mơ hồ cơm áo âm thầm thịt xương!
Lẽ đâu không có thiên đường?
Lẽ đâu chỉ có tang thương nợ nần?
Nép vào nhau: đỡ tủi thân
Xin cho một chút ân cần... nửa đêm.

MD 03/19/04
LuanTam

Luan Tam
Transistor
Posts: 28
Joined: 23 Jan 2008 19:21

Re: Hương Áo và thơ LuânTâm

Postby Luan Tam » 11 Feb 2008 01:15

bóng hình

Long đong sóng cỏ xanh mây
Chuồn chuồn mòn cánh hao gầy nắng trôi
Vàng mơ lá rụng chơi vơi
Gió xô bóng lạ gió mời bóng quen
Áo thay hương mới hờn ghen
Buồn dâng nghẹn tiếng dế mèn mồ côi
Mơ tan cành rã đau chồi
Thẩn thờ bướm cũ bồi hồi vườn xưa
Ngủ mê nắng hạn thèm mưa
Ngủ mê tình điệu bóng đưa mệt nhừ
Mơ màng hồng áo tiểu thư
Mơ màng gác trọ đón đưa tình hờ
Ve sầu ru cánh ngẩn ngơ
Mấy dòng lưu lạc còn ngờ tình thư
Sông to nước nhỏ buồn dư
Bóng ai gội tóc tương tư trễ đò
Lòng đau bó gối nằm co
Ôm trăng lỗi hẹn dặn dò... trôi sông
Núi nghiêng níu bóng mây hồng
Rừng nghiêng mắt nhắm suối vòng mộng du
Áo cơm mặc kệ cai tù
Bỏ buồn, bỏ khổ, bỏ thu nợ trần
Mỏi mòn trong đục thương thân
Lưng trần tay trắng gót xuân lỡ làng
Đường nào hoa khóc cỏ than
Đường nào vàng đá xin khoan nói liều
Loanh quanh quên sớm nhớ chiều
Hết duyên hết nợ đường yêu lạ lùng
Như bã rượu, như dây thun
Như khôn quá dại như khùng quá khôn
Hồn đâu còn sợ hết hồn?
Nửa mê, nửa tỉnh, nửa chôn... nửa tìm...

MD 02/25/06
LuanTam

Luan Tam
Transistor
Posts: 28
Joined: 23 Jan 2008 19:21

Re: Hương Áo và thơ LuânTâm

Postby Luan Tam » 11 Feb 2008 01:16

cần thiết

Rừng chẳng còn cây đâu phải rừng?
Cây không hoa trái lá không xuân
Không em anh không còn anh nữa
Không cửa, không nhà đón người dưng?

Không mắt không môi không nói cười
Không tai không mũi không chút người
Không tim không óc không mơ mộng
Không tiếng thở dài không hên xui?

Còn lại chút gì trong gió mưa?
Trong màu áo mới chờ đón đưa
Trong môi mê gọi lời trăng gió
Trong tóc thơm đầy chuyện đời xưa?

Trời đất phân chia mấy cõi buồn?
Mấy bờ nước mắt, mấy đau thương
Mấy sông, mấy biển xanh rừng núi
Để gió thu nào nhặt chút hương?

Không anh em biết như thế nào?
Hai cánh tay trần trắng chiêm bao
Bờ vai còn dấu hôn thổn thức
Môi ướp đường phèn hay mía lau?

Hay chỉ còn trơ xác rong buồn?
Như lời rêu úa gọi mù sương
Như cây không lá, hoa không sắc
Như trái mãn cầu rơi xuống mương?

Em sẽ đi trên dãi Ngân Hà
Nhặt bao sao đẹp kết đèn hoa
Soi đường cổ tích tìm chăn gối
Hay gọi trăng non thăm rừng già?

Tay nhớ tay thương tay dỗ dành
Tay nào nhóm lửa suốt năm canh?
Tay nào quá điệu ghen hờn bướm?
Hay chỉ đi về áo rêu xanh?

Hai số không sao không giống nhau?
Hoài công kiệt sức đợi chiêm bao
Hai đầu trái đất người đâu mất
Môi đá thèm hôn bóng nắng nào?

Lênh đênh mây trắng kiếm mây vàng
Cánh cò hiền dịu cũng nhòa tan
Em còn phân nửa anh phân nửa
Nghìn kiếp cô đơn khóc lỡ làng?

Làm sao ghép lại được như xưa?
Chung bóng chung đôi yêu bốn mùa
Mặc kệ đói no quên cay đắng
Ngày say nắng ấm đêm giỡn mưa!

Tách ra một nửa còn như không
Thiếu cái xương sường điệu cong cong
Như đu đủ đực mơ ôm trái
Hoa lá xanh tươi chỉ đau lòng! (1)

Lận đận, long đong sóng bạc đầu,
Nửa vòng trái đất cháo xa rau
Thương vùng núi lửa không còn lửa
Thương bóng trăng già thèm mưa ngâu...

MD 11/24/05
LuanTam


(1) Cây đu đủ đực chỉ có lá, hoa mà không có trái được. Hình như hoa đu đủ đực cũng là một vị thuốc Nam?

Luan Tam
Transistor
Posts: 28
Joined: 23 Jan 2008 19:21

Re: Hương Áo và thơ LuânTâm

Postby Luan Tam » 11 Feb 2008 01:19

Nẻo nhỏ vào thơ Luân Tâm


Trong vườn thơ văn hải ngoại vừa xuất hiện một thi tâp mang tên Hương Áo (tháng 10/2007). Tác giả là Luân Tâm, người chỉ mới cầm bút cách nay hơn 5 năm. Đây là đứa con đầu lòng, một trong 3 đứa sẵn sàng chào đời trong nay mai. Riêng tập Hương Áo này, khá đồ sộ, gồm 151 bài thơ dài, với 360 trang chữ chật ních.

Tôi hân hạnh có Hương Áo trong tay và cả gan đọc qua cho biết. Dù chưa cảm-hiểu hết, tôi cũng cảm thấy mắc nợ tác giả. Niềm tâm sự, nỗi suy tư của mình phần nào đã được tác giả ghi lại giùm rải rác suốt tập thơ. Những viên ngọc đẹp, những cánh hoa tươi góp phần tô điểm thêm cho đời. Rồi tôi cũng cảm thấy cần giải bày chút gì để tỏ lòng trân quí những cánh hoa, những hạt ngọc và để tạ ơn tác giả Luân Tâm.

Muốn đọc cho xong Hương Áo phải mất cả tuần. Muốn thưởng thức kỹ hơn thì cả tháng. Sạu cùng, xếp sách lại, chưa chắc hiểu hết. Với nét đặc trưng như vậy, với vóc dáng lẫn tâm hồn như vậy, "Hương Áo” quả là một hiện tượng lạ. Tôi thầm nghĩ chỉ riêng tập thơ này thôi cũng đủ tiêu chuẩn định vị tác giả là một thi-sĩ có tầm cỡ.

Với tư cách là một độc giả bình thường, không rành về thơ lắm, tôi xin được ghi lại vài cảm tưởng chung chung về tập thơ nói trên. Đọc Lời Tựa của nhà thơ Dương Quân, Lời bạt của nhà văn Nguyễn Bữu Thoại và cả bài Lời Nói Đầu của chính tác giả in trong Hương Áo, ai cũng cảm thấy đó là con đường rộng lớn đưa khách vào cõi huyền hoặc thơ Luân Tâm rồi. Do vậy, bài viết này xin được xem là một nẻo rất nhỏ, một cái nhìn xa xa, hướng vào vài góc cạnh của khối kim cương hết sức đa diện. Nếu có gì sai sót, kính xin quí vị và tác giả thông cảm cho.

1. Hương Áo hay Áo Hương?

“Hương Áo” là tựa một bài thơ, được chọn đặt tên cho toàn thi tập.
Hai từ đó phát ra âm điệu ngọt ngào, vời vợi, mông mênh. Làm sao không gây liên tưởng tới 2 câu thơ xưa bất hủ:

“Đập cổ kính ra tìm lấy bóng
Xếp tàn y lại để dành hơi!”

Nhiều vị đã nhắc tới nàng tiên thơ của Luân Tâm, cùng lúc cũng là người yêu mộng tưởng, người bạn tri âm, người vợ dịu hiền, nàng tiên mắc đọa. Quả thực tình học trò rồi nghĩa phu thê ở đây là một chuyện tình quá đẹp đẽ, cao vời, chỉ có một trong muôn ngàn, hay thậm chí chỉ có một không hai. Ai cũng khen Luân Tâm là người chồng tốt, là kẻ chung tình! Sở dĩ được như vậy là vì Luân Tâm rất may mắn có được một “nàng tiên” mắc đọa, người vợ vẹn toàn đức hạnh, hiền thục đảm đang, rất gương mẫu, rất đáng được chung tình với. Cả hai đều hiếm trên đời.

“Hương áo!” Trước hết là hương của chiếc áo người thương, áo vợ hiền. Nhưng, có phải do một sự tình cờ hay chủ ý, Hương áo không chỉ có gói ghém riêng cái tình phu thê thiêng liêng đó, mà còn phủ kín cả cuộc đời. Áo mẹ, áo cha, những chiếc áo đẫm mồi hôi nước mắt, áo mùi bùn mùi cỏ, áo che ấm tuổi thơ. Rộng hơn, áo còn là áo của thời gian, áo của không gian, của dòng đời, của lịch sử, của văn hóa, của đạo lý nghĩa nhân. Người đọc còn bắt gặp hàng trăm lần chữ “Áo” rải rác suốt tập thơ: áo ngày, áo đêm, áo rừng, áo mây, áo mưa, áo lá, áo hoa, áo nắng, áo gió, áo sương, áo bụi, v. v... Luân Tâm có vẻ rất sính với từ “áo” . Hương áo lung linh sống động, xa xôi héo hắt hay kề cận thân yêu, như nỗi nhớ niềm thương không rõ tên về một miền quê hương xa cách. Hương Áo chính là hương đời, là hương trần-gian, đượm thắm tính nhân bản và làm thổn thức con tim.

Như vậy “Xếp tàn y lại để dành hơi” có thấm gì khi so với hai tiếng “Hương Áo” này? Đọc “Hương Áo”, hồn người đọc sẽ bồng bềnh trôi theo sóng gợn chập chùng hay đắm chìm theo tâm tư sâu thẳm của tác giả. Nguyên tập thơ chính là chiếc áo tình cảm muôn màu mà Luân Tâm đã “áo” lên tất cả mọi thứ “hương trần gian” đó.

Hương áo hay là anh Áo hương?
Làm sao áo được hết yêu thương!

2. Suối nguồn bất tận.

Hương trần gian trùng trùng bất tận lần hồi được tác giả phổ vào thơ, chuyển hóa thành hương thơ. Thơ thăng hoa, bay cao, hay cuộn chảy, trào tuôn không biết mệt, trong khi người đọc phải bắt mệt trước lưu lượng hãi hùng của nó. Liên tưởng tới hình ảnh cánh tay vung từng nắm hạt mọng lên trời, hay hơi thở toát ra từng ngụm khói sương của lữ khách trên cao nguyên lạnh giá. Cả hai, có phải đó là hình ảnh của Luân Tâm làm thơ? Nhất cử nhất động đều toát ra thơ!
Nguồn thơ Luân Tâm như những dòng nước ngầm, nước mội, từ đâu đó đã âm thầm tích tụ thành biển hồ mênh mông sâu thẳm, thỉnh thoảng đã có vài bài được phổ biến trong phạm vi thân hữu hạn hẹp, như những con rạch khiêm nhường thoát ra, róc rách uốn mình bên suối rừng u huyền, ít ai biết hoặc lưu tâm theo dõi. Nay thì” Hương Áo” bung ra, như đê vở, như đập tràn: như dòng sông hoành tráng 9 cửa mang mầu mỡ phù sa tràn ngập ruộng đồng bát ngát, như dòng suối hùng vĩ với nước nguồn ngọt mát tỏa vào vườn hoa đang khô hạn chốn tha hương.

Xin hãy liếc mắt qua dáng vóc thì sẽ thấy.

Có bao giờ độc giả từng được thấy tập thơ đầu tay của một người mới cầm bút chỉ hơn 5 năm mà dày nặng tới hơn 360 trang? Chẳng vậy mà còn có thêm 2 tập khác với số lượng thơ tương đương sắp được chào đời! (*). Thói thường người ta in thơ chỉ chú trọng về nét thanh thoát, nhẹ nhàng như tranh thủy mạc. Một bài thơ gồm năm, mươi câu đã chiếm trọn một trang, chiều cao bài thơ chiếm 2 phần 3, thậm chí có khi chỉ in từ giữa trang đổ xuống. Những bài thơ của Luân Tâm hầu hết rất dài, từ 1 trang trở lên. Có rất nhiều bài chiếm 3, 4 trang giấy. Như bài “Hương Áo” và bài “Lòng Chị” có 88 câu, bài “Một Chút Son Môi” và “Giấc Ngủ Chưa Yên” cùng có 108 câu. Trong suốt tập thơ, ngoại trừ ít trang phụ bản hình ảnh, thư pháp do họa sĩ Vũ Hối và tranh của Họa sĩ A.C.La Nguyễn thế Vĩnh, trang nào thơ cũng đầy ấp từ đầu tới cuối trang, câu chữ chen chút khít rịt, như hoa nhiệt đới, như lúa mạ phì nhiêu của miền Cửu Long. Nếu tính trung bình mỗi trang chuyên chở 20 câu thôi thì trong 300 trang ròng dành cho thơ, tập Hương Áo đã chứa gần 6.000 câu. Nó đã làm cho liên tưởng đến trên 3.000 câu thơ Kiều. Không biết cụ Nguyễn Du đã dành bao nhiêu thì giờ để hoàn tất. Tôi chưa dám nói tới giá trị nghệ thuật hay nội dung thi tứ, chỉ riêng về hình thức và số lượng thôi, thơ Luân Tâm trong 3 tập gộp lại đã có gần 2 vạn câu. Nếu nói khiêm nhường hơn thì cũng có khoảng 15 ngàn câu! Một trường giang! Một đại hải! Tất cả được sáng tác chỉ trong vòng 5, 6 năm. Làm sao mà không đánh giá là đồ sộ? Sao không gọi là hiện tượng hiếm hoi? Viết không biết mệt như vậy mà Luân Tâm vẫn cứ than “Thi, thư bất tận ngôn”?

Sức mạnh nào đã đánh động và nuôi dưỡng cảm hứng mãnh liệt bền bỉ đến như vậy?

Đã có hàng muôn ngàn thi tập được in ra ở hải ngoại. Đó là một trong những phương tiện tâm tình của những người xa xứ nhớ quê hương. In ra để biếu làm kỷ niệm! Động lực đầu tiên thúc đẩy Luân Tâm chắc cũng vậy. Viết cho mình, rồi viết cho người thân và thân hữu tri âm. Trong lời trần tình, Luân Tâm có ghi rõ. Làm thơ để tìm chút nguồn vui cho người vợ hiền đang lâm bệnh. Làm thơ để đọc cho vợ nghe!! Thơ đã giúp cho hai người đào xới tuổi thơ, moi lên kỷ niệm, tìm lại vùng trời đã mất làm thức ăn tươi mát cho tâm hồn. Thế mà kết quả không ngờ. Hai người đã tìm lại hương áo ngày xưa. Bệnh tình của người vợ hiền từ từ thuyên giảm,sức khoẻ dần dần được hồi phục. Thơ len lỏi vào mọi ngõ ngách tâm hồn, bàng bạc trong cuộc sống thường nhật. Tác giả bị cuốn hút, mê say chìm đắm trong cõi mộng thực, cũ mới, có không, mịt mùng bất tận. Tiên thơ đến tận nhà, ở trong nhà, rất thực, hiện hữu, không cần lên núi tìm kiếm. Chất liệu thơ Luân Tâm hầu hết là những kinh nghiệm sống thực hoặc là những dữ kiện sờ sờ trớc mắt.

Những bậc tiên thơ ngày xưa, hay chính vài thi sĩ được xếp vào hạng “lớn” cận đại, thường coi say là nguồn cảm hứng, thậm chí không say mà cũng giả bộ say. Thơ túi rượu bầu. Tản Đà, Vũ Hoàng Chương, Bùi Giáng, v.v... cần có rượu. Có vị còn mượn thêm nàng tiên nâu, tiên trắng ấp ủ mới chịu nhả ngọc phun châu. Toàn là ảo tưởng, ảo giác, vị kỷ, riêng tư. Chất thơ rổng bệu mà thường vay mượn từ đâu đâu. Rượu dễ tạo cảm giác dị thường, cũng dễ giúp nhà thơ thành lập dị, khác chúng. Thơ có rượu mới hay, thơ điên điên lại càng hấp dẫn?

Nhà thơ “non trẻ” Luân Tâm (với tuổi già trên 60) cũng có lối lập dị riêng. Cũng say. Nhưng chẳng hề say rượu mà chỉ say tình. Tình yêu vợ chồng, mẹ cha, thầy trò, anh em bạn bè và tình quê hương. Hiếm khi Luân Tâm bị hay được “điên” hoặc “mê sảng”, chỉ có lúc ngỡ rằng nàng tiên bỏ cuộc về trời:

Muốn khóc mà không khóc được đâu
Bây giờ mình đã thực xa nhau
Em như sương khói như mây trắng
Không thể yêu anh đến bạc đầu..

(Không Màu. Tr. 114)

Lệ đã khô rồi máu cũng khô
Nằm ôm sương gió ôm mả mồ
Nhớ lời nũng nịu...hương chăn gối
Em nỡ lặng im nỡ hững hờ?

(Màu Đất, tr. 248)

Chính tâm hồn mẫn cảm trù phú là cái nền phù sa bất tận cho thơ Luân Tâm nảy mầm. Chính cái kho chứa ký ức quê hương vĩ đại là nguồn thơ êm dịu châm thêm cho suối thơ trôi chảy miên man. Thật ra mầm thơ của Luân Tâm đã được cấy rất sớm vào tâm hồn và tiềm thức. Như chính tác giả thổ lộ, lúc còn thơ ngoài việc được “tắm trong ca dao”, câu hò và điệu hát ru em, cậu bé Luân Tâm được gia đình khuyến khích đọc rất nhiều truyện bằng thơ và các loại sách tốt. Ngôn từ đã tích tụ cả bồ. Ý thơ đầy ứ tim non. Nàng thơ lấp ló vào hồn. Nhưng cảnh đời bất ổn, vận nước không may, bể dâu tiếp nối đã ức chế bao nhiêu tâm tình tuổi trẻ. Cũng phải trải qua thời gian tù tội, qua một thời quản chế gian khổ bất an, rồi Luân Tâm mới được định cư tại Mỹ theo diện HO năm 1994. Khi cuộc sống tạm yên ở xứ người, bỗng “nàng tiên bị mắc đọa” thì bao nhiêu ẩn ức lúc đó mới tuôn trào, hỏa diệm sơn phát nổ, hồn thơ chấp cánh bay lên cao vút. Bởi vậy thơ Luân Tâm, trong lúc ban sơ mới “xuống núi”, thấy tuy nó mới mà đã cũ, tuy non trẻ mà già dặn. Chững chạc, hiên ngang, phóng khoáng. Đây là cung cách của một hành giả thuần thành, hơn là của anh học trò bỡ ngỡ tập làm “thơ cóc nhái” như tác giả thường tự giễu mình. Không có thơ loạn, thơ say, thơ điên, thơ tếu. Một mực thơ tình cảm, hiền hòa trung hậu.

3. Em tắm ngọt ngào trong ca dao.

Đây là câu dẫn nhập cho bài “Ca Dao” (tr.55). Lại có thêm điểm khác thường trong dáng dấp nàng thơ của Luân Tâm. “Em tắm ngọt ngào trong ca dao”. Nàng có vẻ rất bình dị, thật thà nhưng rất lành mạnh như cô gái vườn quê. Nàng chỉ có hai loại áo là Áo Bà Ba đơn sơ, dịu hiền và Áo Dài truyền thống thướt tha. Tôi muốn nói tới thể loại thơ mà tác giả thường dùng. Chỉ có hai thể thơ quen thuộc: Lục bát và Thất ngôn. Hỏi tại sao, được tác giả giải thích lý do là “con người chỉ có 2 chân”. Đúng vậy, chỉ có hai chân mà đi từ sơ cổ đến ngàn sau, từ đồi núi xuống đồng bằng, từ rừng sâu ra biển cả, từ quê nhà tỏa khắp năm châu.

Lục bát mộc mạc như nghề nông của dân tộc, là tiếng ru của mẹ, là hơi thở ông bà, là tiếng gió quê hương, thoang thoảng sau hàng tre, loan tỏa khắp ruộng đồng. Luân Tâm sanh ra và lớn lên nơi quê hương của cụ đồ Nguyễn Đình Chiểu, là kẻ hậu sinh, dường như cũng muốn tận dụng thể thơ của Lục Vân Tiên, bình dị như ca dao?

Lá tre rụng xuống ao nào?
Mấy con cá nhỏ che đầu mộng mơ
Thương con tôm tích gà mờ
Búng càng ra khỏi hang chờ cá non.

(Hương Quê, tr. 68)

Thất ngôn là bảy chữ kiểu thơ Đường, nhưng ở đây niêm luật bị mài mòn góc cạnh, cho nó bình lặng hơn, êm dịu hơn:

Tha thướt em đi như mây hồng
Xin cho anh được cùng sang sông..

(Như Mây Hồng, tr. 117)

Hai thể thơ là đủ. Chẳng cần biết thêm thơ cũ thơ mới, 2 chữ, 4 chữ, ngũ ngôn, 8 chữ hay thơ tự do gì cả. Có người bảo Luân Tâm là người chung tình với vợ? Không chỉ có vậy. Ở đây cũng thấy sự chung tình với lục bát ca dao.

Rồi với cả cách dùng từ dụng ngữ nữa. Cũng là người chung thỉ hết mực với văn hóa dân tộc. Với bằng Cử Nhân Văn Khoa chắc là không thiếu chữ. Vậy mà chẳng thấy những điển tích, sáo ngữ, địa danh bên Tàu như Đường Minh Hoàng, Tô Châu, Hoàng Hạc Lâu trong thơ Luân Tâm. Không có sông Danube, thành Vienne hay Venise ở bên Tây. Mà toàn là cua cá, cóc nhái, dưa bí, cỏ rau, cây trái, bùn sình, v.v… của quê hương. Toàn là ảnh tượng quê mùa, ngôn từ bình dân. Ít có ai can đảm như Luân Tâm. Đất mới do ông bà bỏ xương máu khai phá để có cây lành trái ngọt, ngôn ngữ mới ông bà phát kiến và sử-dụng theo hoàn cảnh đổi thay. Có phải yêu thương và bảo tồn 2 thứ đó là điều hãnh diện đối với tác giả? Xin nhắc lại mấy câu ca dao:

Gió đưa cây cải vìa trời
Rau râm ở lại chịu lời đắng cay.

Hoặc

Bìm bịp kêu nước lớn ai ơi
Buôn bán không lời chèo chống mỏi mê.

(Ca Dao)

Còn Luân Tâm thì:

Tủi thân ăn ớt không cay,
Khổ qua không đắng, chanh xoài không chua
Buồn rung tàu chuối lá dừa
Hoa tàn cây héo thềm xưa thẩn thờ!
Trời mưa: cá nhảy lên bờ,
Hết ham bắt cá, đặt lờ, giăng câu..

(Cỏ Khô tr. 59)

Có phải chính những thứ rau đắng, rau má, trái cau, trái dừa…, hoa bưởi, hoa lục bình, điên điển, v.v.. đã thành xương, thành máu, đã núp kỹ trong tiềm thức của Luân Tâm, thành những hạt mầm bất diệt, giờ gặp cơ duyên tốt nảy nở thành vườn hoa.
Ngôn ngữ thơ thì vậy, nhưng về khía cạnh nghệ thuật thì Luân Tâm đã vượt ra khỏi thói thường, đã thành thầy bùa thầy pháp, với những sáng kiến bất ngờ, với cách thế phối từ, đão ngữ, dàn ý rất lạ. Thí dụ như:

Xanh trời xanh biển xanh môi...
Cội nguồn nghi hoặc ngại lời mai sau
Hết thấp đất hết trời cao
Gió xoay lòng huyệt gió bào xương da...

Lòng đau rụng sạch tay chân
Lăn hoài trong cõi phù vân ỡm ờ
Ảnh ai mà nhặt lên thờ
Nhìn đi nhìn lại còn ngờ là...ta?

(Xanh Môi, tr.209)

Tuy có hao hao Bùi Giáng nhưng dễ cảm nhận hơn. Hoặc như:

Người che mặt ta giấu thân
Giữa trời lận đận nợ nần đục trong
Tay khô ủ gót chân hồng
Nghiêng so kỷ niệm cuối bồng tương lai
Chợt đau thấu nắp quan tài
Ta ru người ngủ áo bay thẩn thờ...

(Cuối Bờ Viễn Du, tr 319)

Có người đã xếp thơ Luân Tâm ở một khía cạnh nào đó vào loại “siêu thực” . Thực ra chắc tác giả không muốn tự nhốt mình vào bất cứ “trường phái” nào. Tôi nghĩ đó chỉ là sự trùng hợp về chút tiêu chuẩn của cái được gọi là “siêu thực”. Nó nằm trong tứ thơ nhiều hơn là hình thức. Chú tâm gò mình vô khuôn mẫu hay trường phái nào đó, cái hồn nhiên chân chất của thơ có còn không? Mầm thơ có sanh ra quái thai mệnh yểu hay không? Có nhiều thi sĩ đã chết oan khi “dấn thân” theo đuôi “thời thượng” được khơi dậy từ Âu Mỹ. Xin quí vị nhớ lại thời đầu thập niên 60 thế kỷ trước, và hiện nay, nhìn quanh quất đâu đây thì cũng thấy. Một số người hãnh diện, tự hào vì đu được cái đọt héo Hiện-sinh thuở ấy hay, bây giờ, nắm cái đuôi Hậu hiện đại gì đó, rồi phát loa inh ỏi về việc cách tân khó thuyết phục của mình. Luân Tâm, dù lắm khi có ý tưởng lạ, tứ thơ bí hiểm, dường như vẫn men theo lối mòn, theo gót đám đông. Rất khó xếp thơ Luân Tâm vô một khuynh hướng hay khuôn mẫu nào. Hơi của Nguyễn Bính, Xuân Diệu, Hàn Mạc Tử ... cũng có. Hương của Nguyên Sa, Nguyễn Tất Nhiên hay của Bùi Giáng, Phạm Thiên Thư... cũng có. Có đủ hết. Trên suối thơ mấp mô chập chùng, lấp láy quanh co của Hương Áo, ánh lên đủ hết các màu sắc: xưa- nay, cổ điển- tân thời, bình dân- bác học, hiên thực- trừu tượng, cụ thể-siêu hình, v.v... và đôi khi có chút thiền và chút triết. Cho nên, nếu vị tình, không chê lối đó là bảo thủ thì tặng cho nhãn hiệu “gìn vàng giữ ngọc” cũng hợp tình phải lý. Xin xem vài thí dụ:

Lang thang tìm lại dấu bụi đường
Em mới dẫm lên còn dễ thương
Nhặt lên âu yếm cho vào túi
Mà ngỡ ngọc ngà ngỡ sắc hương..

(Như Mây Hồng, tr. 117)

Đọc nghe từa tựa Nguyên Sa?

Hoặc là:

Dấu ngã dấu huyền dấu sắc không
Trôi theo đường thẳng bám đường vòng
Đếm từng dấu nặng từng dấu phẩy
Không đủ đền bù năm tháng không..

(Trong Lòng Gió, tr. 206)

Đọc thấy hơi thơ là lạ và nhuốm chút triết kiểu Bùi Giáng?
Cũng có cái gì nghe rờn rợn kiểu Hàn Mặc Tử, như:

Bao đêm thức trắng nhớ trăng tàn
Nghe tiếng côn trùng lạnh thở than
Nghe mình mục rã như tro bụi
Hoa dại xây mồ cạnh cỏ hoang!

(Không Nhớ Tên, tr. 245)

Còn nhiều, rất nhiều trong hơn 300 trang thơ Hương Áo sự trùng hợp hay tương tợ như trên, mà chắc chắn không phải là sự bắt chước mù quáng vì mỗi người diễn đạt những ý tứ riêng tư, độc đáo của mình. Và trên đời, chí lớn gặp nhau là thường.

4. Cái nết đánh chết cái đẹp

Đã rõ dáng vóc nàng thơ của Luân Tâm là cô gái quê. Nhưng xét về tâm hồn thì người ta không khỏi ngạc nhiên. Tôi định nói về ý tứ mà thơ Luân Tâm bao hàm, cái hương trời nét ngọc mà Luân Tâm đã “áo” bên trong những vần thơ bình dị đó. Cái hồn của thơ có bay bổng hay không là do sự sáng tạo. Nhìn từ khía cạnh này người đọc mới thấy những thi tứ bất ngờ, những sáng tạo vô biên của tác giả.

Luân Tâm có nhiều lợi thế hơn nhiều người làm thơ khác. Từ mùi bùn non áo vá đến hương áo dài phấn son, từ nhà lá đơn sơ đến nhà tầng cao nghệu, từ đi bắt ốc hái rau ngoài đồng cho đến ngồi trong đại sảnh soạn thảo văn thư, v.v... Đã trải qua hết. Thượng vàng hạ cám có hết. Do đó cái tình quê, tình người ở đây tỏ ra tự nhiên như nước với sông, gắn bó, bàng bạc, mênh mông, bất tận. Khác với tình thương hời hợt góc phố hẹp hòi với con đường Gia Long, Lê Lợi, quán La Pagode, Thanh Thế hay “Con đường Duy- Tân cây dài bóng mát”, sớm bỏ đi và sớm bỏ quên. Chính cảnh sống và lớn lên với cỏ cây mây nước miệt vườn Cửu Long hiền hòa đã giúp cho tình yêu đó càng tha thiết thâm sâu. Nhớ là nhớ hoài. Xa thì cứ mộng thấy quê hương. Toàn TậpThơ của Luân Tâm đã thể hiện rất cụ thể những điều đó. Nàng thơ trong Luân Tâm đã làm cho người đọc quên mất cái dáng vóc bình dị kém cao sang của mình, mà bị lạc vào chốn tâm linh u huyền mà rất diễm lệ.

Cũng vẫn là điệu nói thơ quen thuộc nhưng chứa chan tình mẹ tình quê như:

Mẹ nuôi được một con heo
Bao nhiêu nồi cám, nồi bèo sớm trưa
Mà tiền chẳng đủ để mua
Cho con áo mới lên chùa dâng hương
Quản bao dãi nắng dầm sương
Quanh nhà bầu bí mướp hương mấy giàn
Bạc hà hành hẹ dưa gang
Khế chua bưởi ngọt bên hàng xoài tơ...

(Giấc Ngủ Chưa Yên, tr.311)

Cũng còn là sự thể hiện chân chất, như trong bài khóc Thầy Nguyễn văn Bông:

Khóc Thầy: hận hải mang mang!
Trời cao xuống thấp để tang thương Thầy!
Chính danh đại nghĩa còn đây
Đêm đêm thức giấc bóng ai giữa trời?

(Cánh Hồng Việt Nam, tr. 189)

hoặc như:

Mai sau ta có đi rồi
Làm ơn gọi nắng mây trôi khóc giùm
. . . . . . . .
Tiễn đưa cuối đất cùng trời
Cũng chưa nói hết được lời biệt ly

(Một Lần Đi, tr. 264)

Rồi bước qua khúc ngoặc ngữ, ngôn:

Sững sờ cây trả áo xanh
Trời thương biển nhớ cũng đành...bú tay!
Tình câm còn bóng hôn gầy
Em hoa chùm gửi ta dây bìm bìm
Áo quan nào cũng được khiêng
Bàng hoàng nắng rụng chó điên cản đường...

(Trả Áo Xanh, tr. 121)

Và sau cùng, đọc giả thường bị lạc vào cõi huyền hoặc bí hiểm của rừng thơ Luân Tâm:

Giọt mưa gợn sóng mặt hồ
Mặt hồ gợn sóng đợi chờ chiêm bao
Chiêm bao gợn sóng trăng sao
Trăng sao gợn sóng lối vào hư không.
. . . . . . . . . . .
Chân người ai vác đi đâu
Tay ta ai bắt nhịp cầu lãng quên
Quá quen sao vẫn hỏi tên
Hay là thay xác mà quên đổi hồn?

(Sóng Gợn, tr. 178)

Bởi vậy có người bảo thơ của Luân Tâm là siêu thực, trừu tượng hay bí hiểm, cũng không phải là sai. Quá đúng, vì rõ ràng muốn tìm bắt cho hết ý tứ bao hàm trong thơ Luân Tâm thì quả thực, đối với tôi, là công việc của người mù xem voi.
Cảm tưởng chung là dường như tác giả làm những sự tổng gộp, thay vì tổng hợp, những liên tưởng. Những liên tưởng này đi ngược lại quá trình xem voi. Thấy cây quạt, liên tưởng tới con voi, rồi vẽ cây quạt mà biểu người đọc phải hiểu đây là con voi. Hoặc giả từ câu ca dao “Em tôi khát sữa bú tay” rồi tác giả dùng từ “bú tay” để tả những cái hụt hẫng về tình cảm, cái cô đơn của thân phận. Hầu hết những hình ảnh khác cũng vậy. Có vẻ như là lối ẩn dụ mà không hẳn là ẩn dụ. Tượng trưng mà chẳng phải tượng trưng. Cho nên thơ Luâm Tâm thật là bí hiểm đối người đọc mà lại hả hê mãn nguyện cho chính mình. Trừu tượng hay Siêu thực ư? Chắc không hẳn. Trong cõi ký ức Luân Tâm có chứa quá nhiều chất liệu thơ, văn, quá nhiều châu ngọc và nhiều kỳ hoa dị thảo, cho nên khi vườn thơ Luân Tâm hình thành, người ta thấy trong đó có một sự tổng gộp tự nhiên những chất liệu đó, như dòng máu có chứa ngàn chất dinh dưỡng tổng gộp một cách tự nhiên từ thức ăn thường ngày. Nhìn một cánh hoa thơ của Luân Tâm, nếu bảo là hoa hồng cũng đặng, bảo hoa cúc, hoa lài, vạn thọ... cũng chẳng sai, bởi vì tác giả đã nhặt từng tay từng cánh của đủ loại hoa mà ghép lại thành một bông hoa bí hiểm theo ý mình. Nhặt muôn ngàn hạt giống quí mà sáng tạo cho riêng mình một vườn thơ, rừng thơ. Phải có sự tưởng tượng và liên tưởng mãnh liệt mới mong tìm ra ít nhiều ý nghĩa của thơ Luân Tâm. Cần đọc đi đọc lại nhiều lần thì cái ý mới lấp ló xuất hiện mời gọi như nàng tiên mơ hồ trên cõi non xa. Đến một lúc “chứng” được một ứng nghiệm nào đó thì mới hít hà khen “tuyệt”.

Nhưng thói thường thì khi thưởng thức thơ, đọc lên nghe âm điệu hay hay, thấy ảnh tượng rực rỡ thì cũng đủ vui rồi. Nghe nhạc Trịnh công Sơn mịt mù mây khói mà ai cũng thích. Cái đẹp không tên, cái ảnh không rõ thì càng hấp dẫn lâu dài. Không biết chính tác giả Luân Tâm đã có chủ ý đánh vào cái yếu huyệt tâm lý này hay không, nhưng chắc chắn thơ Luân Tâm sẽ thâm nhập, thẩm thấu từ từ vào tâm tư người đọc và sẽ để lại ấn tượng khó mờ không thua suối thơ Bùi Giáng trước đây.

Riêng tôi, những ấn tượng sâu đậm nhất hằn mãi trong tâm hồn sau khi đọc Hương Áo, ngoài cái tình nghĩa phu thê của tác giả, lại còn có hình ảnh cỏ cây, sông nước, vườn tược ruộng đồng, rau đắng, ốc bươu vì quê tôi cũng là vùng phù sa nằm giữa hai cánh tay ngọt ngào khoan dung Sông Cửu. Những thứ đó đôi khi đã làm cho tôi cảm thấy ngộp thở đứng tim bay bổng. Vì nhớ nhà. Xin cảm ơn thi sĩ Luân Tâm./.

TX Lâm Thanh,
OZ Nov. 2007


Chú thích:
(*) Tác giả có ghi 2 thi tập sắp ấn hành là
- Ngơ Ngẩn Dấu Buồn
- Trong Vết Bụi Mờ.

(Nhà Văn, Nhà Thơ LÂM THANH, HAI QUẸO, tức LÂM THÀNH HỔ,Cựu SVQGHC khóa Đốc Sự 15)

Luan Tam
Transistor
Posts: 28
Joined: 23 Jan 2008 19:21

Re: Hương Áo và thơ LuânTâm

Postby Luan Tam » 11 Feb 2008 01:21

ca dao
Thân tặng Mao Tôn Vũ Công Hùng

Em tắm ngọt ngào trong ca dao,
Em thơm cổ tích, thơm nắng đào,
Em ôm huyền thoại vui chăn gối,
Em rải trên giường muôn cánh sao...


Chờ em đầu ngõ ca dao
Lá xanh bông trắng ngọt ngào gót sen
Áo hoa cải điệu chờ khen
Môi hồng hoa nắng còn ghen tóc cài!
Em đi trên nụ hoa mai
Hoa cau rụng trắng bờ vai tỏ tình
Cỏ may mắc cỡ lén nhìn
Mây vàng thay áo thay hình khói sương!
Chải đầu hong tóc dễ thương
Ngón tay hoa sứ chỉ đường thơ thơ!
Bình minh chim gọi bướm chờ
Hương xưa còn ấm mấy bờ chiêm bao?
Mơ màng lưng trắng yếm đào,
Gió lên đồi nhớ... gió vào áo trưa...
Em nằm võng hát đong đưa
Chuồn chuồn đáp xuống... lá bùa tương tư
Hàng mai chiếu thủy hiền từ
Còn bao nhiêu giọt nước mưa hẹn hò?
Lúa vàng áo mới thơm tho
Em ôm sương sớm giả đò ngủ quên
Tình sầu bóng nhỏ lênh đênh
Áo dài áo ngắn phơi trên vườn trầu!
Nước rửa chân, nước gội đầu
Hòa vào mạch đất tươi màu cỏ non
Hương ngọc lan, điệu bông gòn
Ngẩn ngơ bướm lạ, giận hờn hoa thơm?
Tay sàng gạo, tay nấu cơm
Tay vui đùa nước, tay ôm vỏ dừa
Tay mặc áo, tay nón đưa
Tay tình e thẹn gọi mưa đêm hồng!
Ruộng vườn mơ gặp suối sông
Hoa lau trắng đợi hoa vông đỏ tình
Đường nào đổ quán xiêu đình?
Đường nào ngơ ngẩn mắt nhìn liêu trai?
Sương đêm thao thức mưa ngày
Vườn đào, vườn mận, vườn xoài thêm hoa
Tóc dài ai dệt tình ca?
Trăng về gọi bóng áo hoa thăm dò...
Chiều xuân nước lớn đợi đò
Gót chân hờn dỗi cánh cò lãng quên
Trái me kỷ niệm nhớ tên
Mà sao răng cắn môi mềm chanh chua?
Không cho đi theo lễ chùa
Để đôi guốc đỏ bỏ bùa cho ai?
Tình leo lên những luống cày
Tình chui vào những củ khoai, trái cà
Tình vào đám bắp, khóm hoa
Em xô, em đẩy không ra lưới tình!
Có hai con bướm theo rình
Hôn nhau để dạy chúng mình... học hôn?
Mây hồng mây trắng chập chờn
Lửa than mê gặp lửa rơm... bao giờ?

MD 12/12/05
LuanTam


Return to “Thi Sĩ Ngàn Phương”

Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 1 guest