Tên Của Một Thành Phố, Địa Danh

Pham Van Vinh
Diode
Posts: 8
Joined: 02 Oct 2007 22:52

Tên Của Một Thành Phố, Địa Danh

Postby Pham Van Vinh » 17 Feb 2006 18:24

Thành phố nào cũng có một cái tên. Tên của thành phố thường được đặt tuỳ vào địa lý, hoàn cảnh lịch sử, mê tín dị đoan, ngôn ngữ địa phương, tập tục địa phương, thói quen của người dân sống tại chỗ v.v ...

Phi trường quốc tế ở Sài Gòn mang tên Tân Sơn Nhấ t. Tân Sơn Nhất không phải chỉ vỏn vẹn là một phi trường mà ở nơi đó còn có xã Tân Sơn Nhất. Chữ " Tân " ở đây chắc để dùng chỉ một địa danh mới nhu xã Tân Sa Châu hay xã Tân Bùi Chu. Trong miền nam Việt Nam ta có rất nhiều xã, ấp bắt đầu bằng chữ "Tân ", đây thường là nơi tụ tập của đồng bào từ bắc vào nam, họ đến cùng một nơi ở ngoài bắc và lấy tên của làng cũ, thêm chữ "Tân" vào phía trước để đặt tên cho nơi mới đến. Cách đặt tên này cũng đã có từ lâu ở miền nam Việt Nam khi mà đất đai còn hoang vu, người dân đến la¨;p nghiệp và cũng đặt tên làng xã bắt đầu bằng chữ Tân. Lối đặt tên này không phải chỉ có bên ta mới có. Ở các nơi khác trên thế giới cũng dùng cách đặt tên này. Điển hình là ở Mỹ. Thành phố New York chắc là do dân gốc người Ái Nhĩ Lan đặt ra. Ở miền nam Ái Nhĩ Lan có một thành phố rất lớn tên là York. Ở Anh Quốc, ta có thành phố HamSphere vì thế ta mới có New Hamsphere bên Mỹ. Tương tự ta có New Orleans, New Jersey, New Mexico, ...

Nhiều nơi làng xã đặt trùng tên nên để phân biệt phải thêm chữ Tây, Đông, Thượng, Hạ. Thí dụ ta có xã Linh Đông, xã Linh Tây, Gò Dầu Thượng, Gò Dầu Hạ. Trong truyện Thủy Hử, Thát Tháp Thiên Vương Triệu Cái ở Đông KhêThôn, vì cao tay ấn nên ma quỷ sợ quá chạy sang Tây Khê Thôn hết. Bên Pháp cũng có rất nhiều địa danh trùng tên nên có nhiều nơi người ta thêm mấy chữ như "ở cạnh sông Seine", "ở cạnh biển", v.v . thí dụ Epinay-Sur-Seine, Ivry-Sur-Seine, Lion-Sur-Mer, Saint Aubin-Sur-Mer ... Bên Nhật Bản ta cũng tìm thấy thành phố Tokyo và Kyoto, viết theo hệ thống Hán Tự Kanji của Nhật Bản, nghĩa là Đông Kinh và Tây Kinh, tức là kinh thành phía đông và kinh thành phía tây của kinh đô nơi nhà vua ngự trị, tên là Nara.

Ngày xưa thành phố Sài Gòn còn có tên là Sài Côn. Tên này xuất xứ từ tiếng Cao Miên mang ý nghĩ thành phố có nhiều cây bông gòn. Sau thành phố Sài Gòn đã đổi thành TP HCM, giống như thành phố St. Sebastopol hay St. Petersburg bây giờ ở nước Nga đã một thời được đổi sang thành Leningrad, hay một thành phố khác mang tên Stalingrad. Ở Mỹ cũng có một trường hợp dùng tên người cho một thành phố hay cho một tiểu bang đó là tên Washington.

Ngày xưa vua Lý Thái Tổ ra Hà Nội chơi thấy rồng vàng xuất hiện nên đổi tên thành phố là Thăng Long và dời đô từ Hoa Lư ra đó. Vua Lê Thái Tổ một hôm dạo thuyền trên Hồ Tây thấy con rùa vàng hiện lên liền lấy thanh gươm ra chỉ bị con rùa cắn lấy mất gươm. Vua nghĩ rùa thần lên đòi gươm lại nên đổi tên hồ thành Hoàn Kiếm. Vua Lê Lợi quê ở Thanh Hóa. Vua gốc người Mường. Ở đây có nhiều xã thôn có tên bắt đầu bằng chữ "Mường". Ở miền trung nước Việt, ta còn tìm thấy nhiều làng, xã mang tên bắt đầu bằng chữ " Mỹ" như Mỹ Chánh, Mỹ Lai, ... Cũng như trong nam ta có những địa danh rất có sự tích địa phương như Thị Nghè, Giòng Ông Tố, Bà Chiểu, Gò Dưa, Gò Dầu, Đồ ng Nai, ... Duy có tỉnh Củ Chi thì không biết có phải vì ngày xưa ở chỗ này người dân đào đất tìm ra một loại củ nhưng không biết tên mới hỏi "củ này tên là củ chi ?" , lâu ngày thành tên cho địa danh chăng? Đó là nói chơi nhưng đối với tính chất phát của dân mình, biết đâu lại là chuyện thâ.t. Thế thì chả lẽ tỉnh Hốc Môn lại là vựa khoai môn của nước ta à? Nếu thế thì tại sao ở Hốc Môn lại nổi tiếng mười tám thôn vườn trầu, là nơi của Gia Định tam hùng?

Những tên của sáu tỉnh trong nam đầu tiên có từ thời vua Minh Ma.ng. Trước kia vua Gia Long đặt các trấn nhưng vua Minh Mạng cho bỏ trấn lập lại thành sáu tỉnh là Gia Định, Biên Hoà, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên . Sau khi người Pháp đã chiếm xong sáu tỉnh liền đổi lại chia ra làm 20 tỉnh. Nhưng tên của sáu tỉnh lúc ban đầu là xuất xứ từ câu năm chữ bên Tàu khen tụng vua nhà Hán là Gia Định Vĩnh An Hà, nghĩa là khen vua "ra roi định an non sông lâu dài". Nhưng vì thiếu mất một chữ cho tỉnh thứ sáu nên vua và các quan thêm chữ Biên vào câu thơ thành Gia Biên Định Vĩnh An Hà . Mỗi chữ trong câu thơ là chữ đầu trong tên của mỗi tỉnh như sau :

- Gia Định : Gia là đẹp, Định là bình đi.nh. Tức là bình định một cách tốt đẹp
- Biên Hoà : Hoà bình nơi biên cương
- Định Tường : Điềm lành ổn định
- Vĩnh Long : Bền vững hưng vượng vĩnh viễn
- An Giang : Non sông an vui
- Hà Tiên : Sông có tiên xuất hiện

Thực ra khi đặt tên cho 6 tỉnh trong nam mà lại dùng và biến cải câu thơ ca tụng vua nhà Hán thành Gia Biên Định Vĩnh An Hà, nước ta lúc bấy giờ có ý so sánh và tán tụng công đức của vua Gia Long to lớn như vua nhà Hán vâ.y. Loại ra những suy nghĩ có tính cách chính trị và lịch sử thì vua Gia Long quả có công rất lớn với triều Nguyễn và dòng họ Nguyễn Phúc đã có công mở rộng bờ cõi nước Việt Nam. Đất Gia Định ngày xưa thời các chúa Nguyễn to lớn lắm. Lúc đầu khi Nguyễn Hoàng vào trấn đất Thuận Hoá, nước ta chỉ vỏn vẹn ngưng lại ở miền Trung. Nhưng về sau các chúa Nguyễn cho người vào định cư từ từ. Người vào bình định và làm quan Kinh Lược đầu tiên ở miền nam là ông Nguyễn Hữu Cảnh dưới thời chúa Nguyễn Phúc Chu. Dần già các quan Kinh Lược khác nối tiếp mà trong đó phải nhắc tới ông Nguyễn Cư Trinh với chính sách Tằm Thư.c. Lúc ban đầu, các quan Kinh Luơợc không đặt trấn mà gọi là Dinh. Ta có Phiên An Dinh (Gia Định), Trấn Dinh (Biên Hoà) và Long Hồ Dinh (Long An). Sau đổi thành trấn thì lúc đầu chỉ có ba trấn là trấn Phiên An (Gia Định), Trấn Biên (Biên Hoà), trấn Vĩnh Thanh ( Vĩnh Long và An Giang). Đến thời Gia Long đặt thêm hai trấn nữ là trấn Hà Tiên và trấn Định Tường. Dưới thời Gia Long, miền nam từ Bình Thuận đến Hà Tiên được gọi là Gia Định thành, miền bắc từ Thận Hoá trở ra gọi là Bắc Thành. Như thế thì quan tổng trấn của một thành này cũng uy quyền như một ông vua vâ.y. Gia Định lúc nào cũng được coi như thủ đô của miền nam. Khi chúa Nguyễn Phúc Ánh vào nam, để tính kế lấu dài đã cho xây thành lũy hình bát quái trên đất Gia Định, nay thuộc về tỉnh Bình Dương. Khi người Pháp chia 6 tỉnh trong nam thành 20 tỉnh, tỉnh Gia Định cũng đứng hàng đầu mang số 1 và là thủ đô của miền nam. Tỉnh Gia Định từ thời Pháp trở đi là vòng đai của thủ đô Sài Gòn. Trước kia có người ví von tỉnh Gia Định là quả trứng gà mà lòng đỏ là thủ đô Sài Gòn. Các tỉnh của miền nam ngày trước được đánh số thứ tự từ số 1 đến số 20. Các ghe thuyền, xe ngựa đều phải ghi số tỉnh cư ngu. Khi nhìn các thuyền bè cập bến, người ta chỉ nhìn con số ghi trên mũi thuyền là biết thuyền ấy đến từ đâu.

Nói về cái tên Hốc Môn. Theo truyền khẩu đã được ghi chép lại thì xưa kia ở khu quận Hốc Môn bây giờ có một cây Da rất to. Không biết cây Da là cây gì, hay là cây Đa chăng? Ở chỗ này cây Da cho bóng mát nên một bà tên Hưng mới ra đây mở một cái quán bán hàng. Vì tiện đường đi lối lại nên khách thập phương ghé lại rất đông. Lâu ngày nhiều hàng quán tụ tập lại họp thành cái chợ. Ở đây có một cái đầm nước khoảng 3, 4 mẫu tây mọc toàn khoai môn nên từ từ người ở đây đặt tên cho địa điểm này là Hốc Môn. Sau chỗ này có người Tàu sinh hoạt, để dễ gọi tên người ở đây đã đổi tên thành Phúc Môn. Hốc Môn nổi tiếng với rượu đế nấu với gạo nếp. Ở đây còn nổi tiếng với heo quay, nem bà Điểm, trầu bà Điểm, cau bà Điểm, thuốc lào, thuốc rê. Không biết bà Điểm là một bà tên Điểm chuyên bán nem, trầu, cau hay là một địa danh, nơi cự ngụ của bà Điểm như chợ Bà Chiểu ? Người ta bảo trầu bà điểm lá nhỏ vàng óng, cau bà Điểm nhỏ, dày, đặc, dòn ... Về chuyện trầu, cau đã có nhiều sự tích và ca dao như đoạn sau đây :

quả cau nho nhỏ
cái vỏ xanh xanh
nay anh học gần
mai anh học xa
lấy em từ thuở mười ba
đến nam mười tám thiếp đà năm con
ra đường thiếp hãy còn son
về nhà thiếp đã năm con cùng chàng

Miếng trầu là đầu câu chuyện, thế thì tại sao Hốc Môn lại có cái tên là Thập Bát Phù Viên hay là Mười Tám Thôn Vườn Trầu và là đất dụng võ của Gia Định Tam Hùng? Ở Hốc Môn có cả thảy mười tám thôn mà thôn nào cũng trồng cau và trầu . Trầu cau vùng Hốc Môn nổi tiếng cả xứ, người trong nước hay dùng loại này trong việc cưới hỏi . Đất Hốc Môn thuộc về Gia Đi.nh. Xưa kia quân Tây Sơn đến đây nể sợ đạo quân Đông Sơn của Gia Định Tam Hùng này lắm. Tam Hùng này không ai khác hơn là Đỗ Thanh Nhân, Châu Văn Tiếp và Võ Tánh. Đỗ Thanh Nhân khi lập đạo quân ở đây là có mưu đồ chống lại nhà Tây Sơn cho nên ông ta mới đặt tên cho đạo quân của mình là Đông Sơn. Sau Đỗ Thanh Nhân đưa toàn bộ tướng sĩ về theo chúa Nguyễn Ánh nhưng về sau có kẻ dèm pha là Đỗ Thanh Nhân ỷ quyền có ý phản nên chúa Nguyễn cho bắt giết đi. Từ đó nghĩa sĩ Đông Sơn cũng bỏ chúa Nguyễn mà đi, Võ Tánh cùng với Ngô Tùng Châu về chiếm vùng Gò Công lập đạo quân Kiến Hoà. Từ đó thế lực chúa Nguyễn yếu đi phải bôn ba ra Côn Sơn, Phú Quốc rồi Thái Lan. Khi chúa Nguyễn về lại đất Gia Định, cho người mang lễ vật đến Gò Công thỉnh Võ Tánh về. Về sau Võ Tánh tự vận tại thành Bình Định cùng với Ngô Tùng Châu. Nói đến Gia Định Tam Hùng mà không nhắc đến Gia Định Tam Gia thì không công bắ`ng. Gia Định Tam Hùng là tướng, Gia Định Tam Gia là Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhân Tịnh và Lê Quang Định thơ văn nởi tiếng nhất xứ lúc bấy giờ nên gọi là Gia Định Tam Gia. Cả ba đều là học trò của ông Võ Trường Toản và đều theo giúp nhà Nguyễn.

Trong năm trấn lúc bấy giờ trấn Định Tường là một trấn rất quan trọng và chiến lươ.c. Thuở ấy mỗi khi Nguyễn Vương đem quân đội từ Xiêm La (Thái Lan) về đều dùng Định Tường làm nơi trú binh và làm bàn đạp của các cuộc tiến binh lên miền bắc. Bây giờ Định Tường chỉ còn là một thị xã nằm trong tỉnh Tiền Giang nhưng thời đó trấn Định Tường to lớn, trù phú, đồng ruộng bao la, là nơi đất lành và nhiều nhân tài. Trấn Định Tường quản lãnh cả vùng Đồng Tháp Mười, nơi nổi tiếng với muỗi mòng bay kêu như sáo thổi, đỉa lội như bánh canh, rắn rết, thú rừng, thú dữ rất nhiều, chim cò đầy rẫy ... Vùng Đồng Tháp Mười là một vùng sình lầy, nước bùn đọng lại do phù sa sông Cửu Long chở về nên đất đai rất tốt cho việc trồng cấy và chăn nuôi. Ta vẫn nghe tiếng đồn về gà Cao Lãnh, Gạo Nàng Hương, v.v. Lúc đầu vũng lầy nhiều chỗ chỉ là bãi cát rộng mênh mông nên người ta gọi đó là Láng Biển. Cũng có nhiều nơi sình lầy voi Đồng Tháp đi qua hàng đàn còn để lại dấu chân nên người dân địa phương đặt tên cho nó là Láng Voi. Nhưng một điều kỳ lạ là tuy ở giữa vùng sình lầy ngập lụt không có núi đá gì mà lại có một cái tháp rất cao xây bằng những tảng đá xanh to lớn theo lối kiến trúc của đền Đế Thiên Đế Thích bên Cao Miên. Khi dân làng tìm ra ngọn tháp thì quan phủ Cao Lãnh mới báo về trung ương. Lúc đó nước ta thuộc quyền cai trị của người Pháp nên trung ương mới cử một nhà khảo cổ là ông Parmentier xuống nghiên cứu. Ông Parmentier sau khi nghiên cứu núi đá và đọc các chữ khắc trên các tảng đá xanh mới đi đến kết luận đây là cái tháp thứ mười trong 10 cái tháp đã tìm thấy. Mười cái tháp này thuộc về văn hoá Thủy Chân Lạp xây để tế tự trời đất. Về sau có một nhà khảo cổ người Pháp khác nói rằng ngày xưa vùng này không thuộc về nước Thủy Chân Lạp mà thuộc về nước Phù Nam, tháp đó là do vua nước Phù Nam xây để cám ơn trời đất đã đưa đất đến lấp vùng đồng lầy. Từ khi khám phá ra ngọn tháp này, dân địa phương mới gọi chỗ này là Đồng Tháp Mười.

Nói đến Đồng Tháp Mười thì phải nhắc đến ông Thiên Hộ Dương vì Đồng Tháp Mười trong thời kỳ kháng Pháp là căn cứ địa của nghĩa quân Thiên Hộ Dương. Nơ i đây đã nhiều lần quân của Thiên Hộ Dương làm cho quân đội Pháp điêu đứng. Ông Thiên Hộ Dương tên là Nguyễn Duy Dương. Ông là hào phú trong vùng, văn hay võ giỏi, các phụ tá cũng là những người có tài. Khi Vua Tự Đức sai ông Nguyễn Tri Phương vào nam kêu gọi hào kiệt kháng Pháp thì ông Nguyễn Duy Dương đã giúp của cải để trang bị cho 1000 quân. Vì thế ông Nguyễn Tri Phương tâu về triều và vua sắc phong cho ông chức Thiên Hô. Từ đó người đời gọi ông là Thiên Hộ Dương. Ông có một đường roi chưa ai phá nổi. Khi ông ngồi trên mình trâu hay ngựa mà quất ngọn tre tầm vông thì người ngoài chỉ nhìn thấy như con lốc xoay tròn. Toàn thân người và thân trâu đều được đường roi che chở. Ông có thể vác nổi một lúc 5 trái linh. Miệng cắn một trái, hai nách cặp hai trái, hai tay xách hai trái còn la.i. Mỗi trái linh nặng 6 kg. Dân chúng vì thế mới gọi là Ngũ Linh Thiên Hộ. Khi Pháp mới chiếm ba tỉnh miền đông thì ba tỉnh còn lại là hậu cần tiếp vận cho Đồng Tháp Mười. Nghĩa quân của Thiên Hộ Dương đã gây rất nhiều tổn hại cho Pháp vì thế vua Tự Đức đã sắc phong cho ông chức Lãnh Binh.

Nói đến chức Lãnh Binh thì chắc không ai quên được một ông Lãnh Binh khác ở vùng Sài Gòn Gia Đi.nh. Lúc ông trấn nơi đây mới cho xây một cái cầu để việc đi lại được thuận tiê.n. Cây cầu này về sau mang tên Cầu Ông Lãnh và cái chợ ở gần đó được gọi là chợ Cầu Ông Lãnh. Ông Lãnh Binh này trông coi nhiều đồn bót nên rải rác khắp nơi ông có tất cả năm bà vợ là các bà Chiểu, Quẹo, Hạt, Hom và Điểm . Vì ông là quan tổng trấn nên ông lập năm cái chợ cho năm bà trông coi và làm của. Đây là chính sách đa thê tự túc tự cường, tự lực cánh sinh. Cũng vì thế mà ngày nay chúng ta mới có các địa danh như Bà Chiểu, Bà Quẹo, Bà Hạt, Bà Điểm.

Tháng 8 năm 2005

Phạm Văn Vĩnh

Return to “Tham Luận”

Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 1 guest