Não Trạng và Tâm Trạng: Đông và Tây - Duy Nhiên
Posted: 11 Feb 2006 08:39
NÃO TRẠNG VÀ TÂM TRẠNG: ĐÔNG VÀ TÂY
TRẦN DUY NHIÊN
Vì vấn đề đa diện và đa dạng, nên tôi chủ yếu đề cập đến những khác biệt giữa đông và tây dựa trên khía cạnh TRỌNG TĨNH và TRỌNG ĐỘNG. Những ý tưởng sau đây phần lớn là dựa vào những điều mà tác giả Trần Ngọc Thêm ghi lại trong cuốn ‘Tìm Về Bản Sắc Văn Hóa Việt Nam’ (1) , cộng với những gợi ý của các anh Trần Ngọc Báu (Thụy Sĩ), Nguyễn Chính Kết (VN) và Nguyễn Đăng Trúc (Pháp).
A - Điểm xuất phát.
Trước hết, để xác định Đông Tây, tôi chỉ xin hạn chế trong lãnh thổ địa dư của lục địa Âu Á. Và để cho rõ nét thì chỉ xin so sánh giữa Âu Châu và Viễn Đông, mà tạm quên vùng Cận Đông và Trung Đông. Một cách cụ thể, ta tưởng tượng một đường chéo thứ nhất kéo từ tây bắc Ấn Độ đến bắc Nhật Bản. Một đường chéo thứ hai song song với đường thứ nhất, kéo dài từ bắc Palestine đến biển Sibérie. Và như thế, Đông mà tôi đề cập là phần bên phải của đường chéo thứ nhất, hay phần đông nam của lục địa Á Âu, và Tây là phần bên trái của đường chéo thứ hai, hay phần tây bắc của lục địa. Còn phần giữa, gồm các nước trung cận đông, một phần của nước Nga và phía tây bắc Trung Hoa (từ Bắc Kinh trở lên) được xem là vùng trái độn, và không được xét đến trong bài này. Sở dĩ như vậy là để tránh những vấn đề nhập nhằng khi nêu lên những câu hỏi chẳng hạn: Thổ Nhĩ Kỳ, Palestine, Iran, Irak, Nga vân vân... là đông hay tây? (Mặc dù trong bài này tôi có trích dẫn vài câu từ Kinh Thánh Do Thái, miền cận đông, để minh họa cho tính chất tây phương)
Sau khi xác định như thế, ta thấy nổi lên sự khác biệt trên nhiều phương diện: ngôn ngữ tây thì biến hình và đông thì đơn lập; tây trọng cá nhân, đông trọng cộng đồng; khi giao tiếp, chào nhau, thì bên tây người này nắm tay người kia, còn bên đông thì mỗi người tự nắm tay mình... Những khác biệt đa dạng hơn được nêu lên qua các thuật ngữ: đông hướng nội, tây hướng ngoại; đông trầm mặc, tây hoạt động; đông trọng phẩm, tây trọng lượng...
Vì sao có sự khác biệt đó? Hay đặt vấn đề cách khác: Sự khác biệt đó bắt nguồn từ đâu? Từ môi trường tự nhiên và xã hội. Vì con người là một hữu thể sống trong một môi trường tự nhiên và xã hội nhất định nên hai yếu tố này hẳn là nguồn gốc của sự khác biệt đó.
Môi trường sống của cộng đồng dân cư ở phương Đông (chính xác là Đông Nam Á Âu, theo như xác định trên) là nóng, khiến mưa nhiều nên ẩm, tạo nên sông rạch và đồng bằng trù phú. Còn phương Tây (chính xác là Tây Bắc Á Âu) lại là xứ lạnh với khí hậu khô, thực vật khó sinh trưởng, có chăng là các đồng cỏ rộng lớn.
Hai môi trường ấy khiến các cộng đồng cư dân chọn một lối sống thích hợp, mà kinh tế chủ yếu dựa vào hoặc là trồng trọt hoặc là chăn nuôi. Người đồng bằng phương đông hướng về trồng trọt và thiên về nếp sống định cư, vì trồng thì phải đợi thu hoạch, và có những cây đòi hỏi phải chờ đợi thời gian dài. Người tây phương thiên về chăn nuôi và tài sản của họ là gia súc. Gia súc phải di chuyển để ăn khi đồng hết cỏ, vì thế nghề du mục dẫn đến nếp sống du cư.
Nếp sống định cư tìm kiếm một sự ổn định lâu dài, nên người phương đông có một não trạng TRỌNG TĨNH, còn nếp sống du cư thì phải tổ chức thể nào để di chuyển gọn gàng nhanh chóng, nên người phương tây có một não trạng TRỌNG ĐỘNG.
Từ hai não trạng đó, ta thử xem chúng tác động như thế nào trên cách thức tư duy, trên tổ chức xã hội và quan hệ với tha nhân.
B - Tác Động trên nhận thức, tư duy:
Người nông dân sống phụ thuộc vào thiên nhiên rất nhiều, không phải vào những sự kiện riêng lẻ mà tất cả cùng một lúc: trời, đất, nắng, mưa...
Nắng quá cũng chết mà không nắng cũng chết, mưa quá cũng chết mà không mưa cũng chết. Ta thấy qua sự trông mong của họ trong ca dao:
Trông trời, trông đất, trông mây,
Trông mưa, trông gió, trông ngày, trông đêm,
Trông cho chân cứng đá mềm,
Trời êm bể lặng mới yên tấm lòng...
Nếp sống này đưa đến lối tư duy tổng hợp. Cách nhìn mọi sự trong tổng thể lại dẫn đến nếp suy nghĩ biện chứng: người nông dân không xét mỗi yếu tố riêng lẻ mà xét theo quan hệ qua lại.
Được mùa lúa, úa mùa cau - Thâm đông thì mưa, thâm dưa thì khú, thâm vú thì chửa.
Ngược lại, người du mục tập trung vào từng con vật mình nuôi. Và suy nghĩ theo lối phân tích: chia mọi yếu tố cấu thành ra từng phần biệt lập, khởi đầu từ việc mổ xẻ con vật ra mà ăn: mỗi bộ phận tự nó là đủ (bởi lẽ liên hệ giữa chúng là điều đương nhiên, không cần phải xem xét để tác động). Từ cách tư duy phân tích đó, người phương tây đi đến suy tư ‘siêu hình’ (theo nguyên ngữ của Aristote: meta physika, nghĩa là vượt qua cái hữu hình, cụ thể, vật chất) để đi đến việc trừu tượng hóa những cái cụ thể thành khái niệm.
Cái nhìn phân tích dựa trên sự trừu tượng hóa đó là cơ sở hình thành lối suy tư khoa học, theo nghĩa hiện nay của từ sciences (2) . Một tư tưởng được xem là mang tính khoa học, khi nó được biện giải qua cách lý luận chặt chẽ, sau đó được kiểm tra bằng thực nghiệm. Muốn làm được điều này thì khi nghiên cứu một đối tượng hay một hiện tượng, người ta phải tách biệt nó ra khỏi các yếu tố và đối tượng có liên quan (kể cả người nghiên cứu), và xem xét nó với cái nhìn của người ngoài cuộc, nghĩa là khách quan. Cái ưu điểm của lối nhìn này, ấy là nó rất rõ ràng và có sức thuyết phục cao, nhưng cái đúng của kết luận khoa học chỉ đúng trong phạm vi mà mình đã giới hạn. Nếu vượt qua giới hạn ấy thì nó lại sai. Cái nhược điểm của khoa học là bao giờ cũng có phần sai. Ví dụ: ‘tổng của 3 góc một tam giác là 180 độ’ chỉ đúng trong hệ thống Euclide, mà sai trong thực tế (3) hoặc trong hệ thống Riemann hay Lobatchevsky. Tuy nhiên nghịch lý là ở chỗ này: chính vì luôn chứa đựng sai lầm nên khoa học phát triển rất nhanh, bởi vì cái sau phải đến thay thế hay bổ sung cho cái trước để cho hoàn chỉnh hơn (4) .
Trái lại, với lối tư duy tổng hợp của phương đông, thì sự chú ý bị phân tán nên không thể nghiên cứu cho sâu một đối tượng nào; bù vào đó, họ có một cái nhìn mang tính ĐẠO LÝ, qua một hệ thống tri thức thu thập bằng con đường kinh nghiệm, chủ quan, và cảm tính. Vì luôn xét các đối tượng một cách tổng hợp trong quan hệ biện chứng, nên người xem không thể tách ra khỏi chỗ đứng của mình, mà chỉ có thể nhìn với cặp mắt của người trong cuộc, nghĩa là chủ quan. Vì luôn đặt mình trong liên hệ với đối tượng nghiên cứu ở ngoài mình, nên phải dùng đến trực giáchay cảm tính., Và vì chủ quan và cảm tính nên muốn kiểm tra một kết luận thì chỉ dựa vào kinh nghiệm. Cái nhược điểm của tư duy đông phương là sức thuyết phục không cao, nhưng ưu điểm là diễn đạt ngắn gọn, thâm thúy. Thêm vào đó, vì hình thành trong một mối liên hệ rộng lớn và được kiểm chứng bằng kinh nghiệm nên cái đúng của lối suy tư Đạo Lý này khá cao. Chính vì thế mà Phương Đông lại chuyển biến và thay đổi chậm.
Hai lối nhận thức này đưa đến hai hệ thống tư duy rất khác nhau: Phương đông đi đến lối tư duy nhất nguyên (Nhất nguyên phân cực - nhất thể lưỡng diện) dựa trên triết lý âm dương tôn trọng sự toàn vẹn của một đối tượng trong tương quan với các yếu tố khác, còn phương tây đi đến lối tư duy nhị nguyên dựa trên luận lý học tôn trọng 5 nguyên lý của lý trí (principes de la raison)
Rất thú vị khi ta thử so sánh hai hệ thống suy nghĩ này. Thử xem một nguyên lý của lý trí. Nguyên lý đồng nhất (principe d’identité) cho rằng mọi vật đều đồng nhất với chính nó: A là A, và mãi mãi là A. Nguyên lý này chỉ đúng khi nào tách một đối tượng hay một hiện tượng nghiên cứu ra khỏi tổng thể để xem xét một cách biệt lập, hoặc khi đối tượng đó tĩnh, đứng yên một chỗ, hay bất biến trong thời gian quan sát. Nhưng trên thực tế, mọi sự vật đều thay đổi với thời gian, mà đã thay đổi thì không còn đồng nhất với chính mình nữa. Nếu xét khía cạnh động, thì lối nhìn Âm Dương có vẻ đúng hơn: Trong âm có dương trong dương có âm mà dương tăng đến một lúc nào đó thành âm và ngược lại, như thế A là dương đến một lúc nào đó lại là âm nghĩa là không (phải) A mà vẫn là A.
Và ta có thể tiếp tục như thế đối với những nguyên lý còn lại là nguyên lý mẫu thuẫn (contradiction), nguyên lý triệt tam (tiers exclu), nguyên lý nhân quả (causalité), nguyên lý cứu cánh (finalité) (5)
Như vậy, các nguyên lý của luận lý học chính là sản phẩm điển hình cho lối tư duy phân tích và chú trọng đến yếu tố biệt lập, xuất phát từ truyền thống du mục; còn triết lý âm dương là sản phẩm điển hình của lối tư duy tổng hợp và chú trọng các mối quan hệ, xuất phát từ truyền thống nông nghiệp.
TRẦN DUY NHIÊN
Vì vấn đề đa diện và đa dạng, nên tôi chủ yếu đề cập đến những khác biệt giữa đông và tây dựa trên khía cạnh TRỌNG TĨNH và TRỌNG ĐỘNG. Những ý tưởng sau đây phần lớn là dựa vào những điều mà tác giả Trần Ngọc Thêm ghi lại trong cuốn ‘Tìm Về Bản Sắc Văn Hóa Việt Nam’ (1) , cộng với những gợi ý của các anh Trần Ngọc Báu (Thụy Sĩ), Nguyễn Chính Kết (VN) và Nguyễn Đăng Trúc (Pháp).
A - Điểm xuất phát.
Trước hết, để xác định Đông Tây, tôi chỉ xin hạn chế trong lãnh thổ địa dư của lục địa Âu Á. Và để cho rõ nét thì chỉ xin so sánh giữa Âu Châu và Viễn Đông, mà tạm quên vùng Cận Đông và Trung Đông. Một cách cụ thể, ta tưởng tượng một đường chéo thứ nhất kéo từ tây bắc Ấn Độ đến bắc Nhật Bản. Một đường chéo thứ hai song song với đường thứ nhất, kéo dài từ bắc Palestine đến biển Sibérie. Và như thế, Đông mà tôi đề cập là phần bên phải của đường chéo thứ nhất, hay phần đông nam của lục địa Á Âu, và Tây là phần bên trái của đường chéo thứ hai, hay phần tây bắc của lục địa. Còn phần giữa, gồm các nước trung cận đông, một phần của nước Nga và phía tây bắc Trung Hoa (từ Bắc Kinh trở lên) được xem là vùng trái độn, và không được xét đến trong bài này. Sở dĩ như vậy là để tránh những vấn đề nhập nhằng khi nêu lên những câu hỏi chẳng hạn: Thổ Nhĩ Kỳ, Palestine, Iran, Irak, Nga vân vân... là đông hay tây? (Mặc dù trong bài này tôi có trích dẫn vài câu từ Kinh Thánh Do Thái, miền cận đông, để minh họa cho tính chất tây phương)
Sau khi xác định như thế, ta thấy nổi lên sự khác biệt trên nhiều phương diện: ngôn ngữ tây thì biến hình và đông thì đơn lập; tây trọng cá nhân, đông trọng cộng đồng; khi giao tiếp, chào nhau, thì bên tây người này nắm tay người kia, còn bên đông thì mỗi người tự nắm tay mình... Những khác biệt đa dạng hơn được nêu lên qua các thuật ngữ: đông hướng nội, tây hướng ngoại; đông trầm mặc, tây hoạt động; đông trọng phẩm, tây trọng lượng...
Vì sao có sự khác biệt đó? Hay đặt vấn đề cách khác: Sự khác biệt đó bắt nguồn từ đâu? Từ môi trường tự nhiên và xã hội. Vì con người là một hữu thể sống trong một môi trường tự nhiên và xã hội nhất định nên hai yếu tố này hẳn là nguồn gốc của sự khác biệt đó.
Môi trường sống của cộng đồng dân cư ở phương Đông (chính xác là Đông Nam Á Âu, theo như xác định trên) là nóng, khiến mưa nhiều nên ẩm, tạo nên sông rạch và đồng bằng trù phú. Còn phương Tây (chính xác là Tây Bắc Á Âu) lại là xứ lạnh với khí hậu khô, thực vật khó sinh trưởng, có chăng là các đồng cỏ rộng lớn.
Hai môi trường ấy khiến các cộng đồng cư dân chọn một lối sống thích hợp, mà kinh tế chủ yếu dựa vào hoặc là trồng trọt hoặc là chăn nuôi. Người đồng bằng phương đông hướng về trồng trọt và thiên về nếp sống định cư, vì trồng thì phải đợi thu hoạch, và có những cây đòi hỏi phải chờ đợi thời gian dài. Người tây phương thiên về chăn nuôi và tài sản của họ là gia súc. Gia súc phải di chuyển để ăn khi đồng hết cỏ, vì thế nghề du mục dẫn đến nếp sống du cư.
Nếp sống định cư tìm kiếm một sự ổn định lâu dài, nên người phương đông có một não trạng TRỌNG TĨNH, còn nếp sống du cư thì phải tổ chức thể nào để di chuyển gọn gàng nhanh chóng, nên người phương tây có một não trạng TRỌNG ĐỘNG.
Từ hai não trạng đó, ta thử xem chúng tác động như thế nào trên cách thức tư duy, trên tổ chức xã hội và quan hệ với tha nhân.
B - Tác Động trên nhận thức, tư duy:
Người nông dân sống phụ thuộc vào thiên nhiên rất nhiều, không phải vào những sự kiện riêng lẻ mà tất cả cùng một lúc: trời, đất, nắng, mưa...
Nắng quá cũng chết mà không nắng cũng chết, mưa quá cũng chết mà không mưa cũng chết. Ta thấy qua sự trông mong của họ trong ca dao:
Trông trời, trông đất, trông mây,
Trông mưa, trông gió, trông ngày, trông đêm,
Trông cho chân cứng đá mềm,
Trời êm bể lặng mới yên tấm lòng...
Nếp sống này đưa đến lối tư duy tổng hợp. Cách nhìn mọi sự trong tổng thể lại dẫn đến nếp suy nghĩ biện chứng: người nông dân không xét mỗi yếu tố riêng lẻ mà xét theo quan hệ qua lại.
Được mùa lúa, úa mùa cau - Thâm đông thì mưa, thâm dưa thì khú, thâm vú thì chửa.
Ngược lại, người du mục tập trung vào từng con vật mình nuôi. Và suy nghĩ theo lối phân tích: chia mọi yếu tố cấu thành ra từng phần biệt lập, khởi đầu từ việc mổ xẻ con vật ra mà ăn: mỗi bộ phận tự nó là đủ (bởi lẽ liên hệ giữa chúng là điều đương nhiên, không cần phải xem xét để tác động). Từ cách tư duy phân tích đó, người phương tây đi đến suy tư ‘siêu hình’ (theo nguyên ngữ của Aristote: meta physika, nghĩa là vượt qua cái hữu hình, cụ thể, vật chất) để đi đến việc trừu tượng hóa những cái cụ thể thành khái niệm.
Cái nhìn phân tích dựa trên sự trừu tượng hóa đó là cơ sở hình thành lối suy tư khoa học, theo nghĩa hiện nay của từ sciences (2) . Một tư tưởng được xem là mang tính khoa học, khi nó được biện giải qua cách lý luận chặt chẽ, sau đó được kiểm tra bằng thực nghiệm. Muốn làm được điều này thì khi nghiên cứu một đối tượng hay một hiện tượng, người ta phải tách biệt nó ra khỏi các yếu tố và đối tượng có liên quan (kể cả người nghiên cứu), và xem xét nó với cái nhìn của người ngoài cuộc, nghĩa là khách quan. Cái ưu điểm của lối nhìn này, ấy là nó rất rõ ràng và có sức thuyết phục cao, nhưng cái đúng của kết luận khoa học chỉ đúng trong phạm vi mà mình đã giới hạn. Nếu vượt qua giới hạn ấy thì nó lại sai. Cái nhược điểm của khoa học là bao giờ cũng có phần sai. Ví dụ: ‘tổng của 3 góc một tam giác là 180 độ’ chỉ đúng trong hệ thống Euclide, mà sai trong thực tế (3) hoặc trong hệ thống Riemann hay Lobatchevsky. Tuy nhiên nghịch lý là ở chỗ này: chính vì luôn chứa đựng sai lầm nên khoa học phát triển rất nhanh, bởi vì cái sau phải đến thay thế hay bổ sung cho cái trước để cho hoàn chỉnh hơn (4) .
Trái lại, với lối tư duy tổng hợp của phương đông, thì sự chú ý bị phân tán nên không thể nghiên cứu cho sâu một đối tượng nào; bù vào đó, họ có một cái nhìn mang tính ĐẠO LÝ, qua một hệ thống tri thức thu thập bằng con đường kinh nghiệm, chủ quan, và cảm tính. Vì luôn xét các đối tượng một cách tổng hợp trong quan hệ biện chứng, nên người xem không thể tách ra khỏi chỗ đứng của mình, mà chỉ có thể nhìn với cặp mắt của người trong cuộc, nghĩa là chủ quan. Vì luôn đặt mình trong liên hệ với đối tượng nghiên cứu ở ngoài mình, nên phải dùng đến trực giáchay cảm tính., Và vì chủ quan và cảm tính nên muốn kiểm tra một kết luận thì chỉ dựa vào kinh nghiệm. Cái nhược điểm của tư duy đông phương là sức thuyết phục không cao, nhưng ưu điểm là diễn đạt ngắn gọn, thâm thúy. Thêm vào đó, vì hình thành trong một mối liên hệ rộng lớn và được kiểm chứng bằng kinh nghiệm nên cái đúng của lối suy tư Đạo Lý này khá cao. Chính vì thế mà Phương Đông lại chuyển biến và thay đổi chậm.
Hai lối nhận thức này đưa đến hai hệ thống tư duy rất khác nhau: Phương đông đi đến lối tư duy nhất nguyên (Nhất nguyên phân cực - nhất thể lưỡng diện) dựa trên triết lý âm dương tôn trọng sự toàn vẹn của một đối tượng trong tương quan với các yếu tố khác, còn phương tây đi đến lối tư duy nhị nguyên dựa trên luận lý học tôn trọng 5 nguyên lý của lý trí (principes de la raison)
Rất thú vị khi ta thử so sánh hai hệ thống suy nghĩ này. Thử xem một nguyên lý của lý trí. Nguyên lý đồng nhất (principe d’identité) cho rằng mọi vật đều đồng nhất với chính nó: A là A, và mãi mãi là A. Nguyên lý này chỉ đúng khi nào tách một đối tượng hay một hiện tượng nghiên cứu ra khỏi tổng thể để xem xét một cách biệt lập, hoặc khi đối tượng đó tĩnh, đứng yên một chỗ, hay bất biến trong thời gian quan sát. Nhưng trên thực tế, mọi sự vật đều thay đổi với thời gian, mà đã thay đổi thì không còn đồng nhất với chính mình nữa. Nếu xét khía cạnh động, thì lối nhìn Âm Dương có vẻ đúng hơn: Trong âm có dương trong dương có âm mà dương tăng đến một lúc nào đó thành âm và ngược lại, như thế A là dương đến một lúc nào đó lại là âm nghĩa là không (phải) A mà vẫn là A.
Và ta có thể tiếp tục như thế đối với những nguyên lý còn lại là nguyên lý mẫu thuẫn (contradiction), nguyên lý triệt tam (tiers exclu), nguyên lý nhân quả (causalité), nguyên lý cứu cánh (finalité) (5)
Như vậy, các nguyên lý của luận lý học chính là sản phẩm điển hình cho lối tư duy phân tích và chú trọng đến yếu tố biệt lập, xuất phát từ truyền thống du mục; còn triết lý âm dương là sản phẩm điển hình của lối tư duy tổng hợp và chú trọng các mối quan hệ, xuất phát từ truyền thống nông nghiệp.