Về mặt giáo dục, xã hội.
Sau đây là nhận định của những nhà giáo dục đã và đang có vai trò và vị thế nào đó trong nền giáo dục Việt Nam (Nhóm Nghiên cứu Cải cách Giáo dục, Hà Nội, Việt Nam, Thiết kế bởi: Phòng Nghiên cứu & Phát triển phần mềm - Viện Toán học), đưa ra trong 'KIẾN NGHỊ CHẤN HƯNG, CẢI CÁCH, HIỆN ĐẠI HOÁ GIÁO DỤC (Dự thảo)':
(xin trích dẫn sau đây những nét chính, toàn văn bản kiến nghị ở trên trang WEB chính thức của nhóm Nghiên cứu Cải cách Giáo dục có tên 'Hướng về giáo dục'
http://www.ncst.ac.vn/HVGD/index.htm )
‘’Bản kiến nghị này gồm ba phần. Phần đầu phân tích thực trạng của giáo dục để tìm ra cái gốc các khó khăn và bất cập hiện nay. Phần thứ hai đề xuất phương hướng hiện đại hoá giáo dục để khắc phục các khó khăn và bất cập một cách cơ bản. Phần thứ ba trình bày một số giải pháp cấp bách cần thực hiện để trả lại môi trường hoạt động bình thường cho giáo dục, và mở đường chuyển dần sang cải cách toàn hệ thống.
I. Thực trạng giáo dục
Ai cũng biết vai trò quan trọng then chốt của giáo dục đối với tiền đồ dân tộc. Thế nhưng, từ nhiều năm, chúng ta đã để cho giáo dục VN tụt hậu khá xa so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Chưa bao giờ tình hình giáo dục bức xúc như hiện nay. Nhìn chung cả nước, hệ thống giáo dục chưa ra khỏi trạng thái lộn xộn bất bình thường, hoạt động không theo quy luật khoa học, hiệu quả kém, chất lượng thấp, đang có nguy cơ bị thương mại hoá theo xu hướng ngược với lý tưởng công bằng và dân chủ của xã hội. Về cả ba phương diện dân trí, nhân lực và nhân tài, những bất cập đều quá rõ:
- Dân trí thấp, biểu hiện trên lối sống và suy nghĩ, tập quán, tác phong, tư tưởng, ý thức... Đạo đức bị xói mòn, thói gian dối, thiếu trung thực đang tác động nặng nề đến mọi mặt của đời sống xã hội.
- Nhân lực không đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế. Yếu kiến thức, kém kỹ năng thực hành, ít khả năng xoay xở, thiếu đầu óc tưởng tượng và năng lực sáng tạo, đó là những đặc trưng chất lượng lao động khiến sức cạnh tranh rất thấp.
- Nhân tài tuy không đến nỗi quá thiếu nhưng phát hiện và bồi dưỡng kém, thiếu cơ hội và điều kiện phát triển. Chất xám bị lãng phí nghiêm trọng dưới nhiều hình thức khác nhau.
Đương nhiên, đây không chỉ là vấn đề của giáo dục, mà là vấn đề của toàn xã hội, nhưng trong đó trách nhiệm và vai trò cuả giáo dục rất lớn.
Tình trạng sa sút của giáo dục là một thực tế khó chấp nhận, nhưng cần được nhìn thẳng mới có thể thấy được đường ra. Hoàn toàn không nên so sánh với thời bao cấp hay mấy năm đầu đổi mới để dễ dàng bằng lòng với bước tiến chậm chạp đã có, mà cần mở tầm mắt ra thế giới bên ngoài, để cảm nhận rõ hơn sự tụt hậu ngày càng xa của chúng ta. Cách so sánh với quá khứ đầy khó khăn trước đây là liều thuốc an thần nhưng thiếu trách nhiệm, vì thật ra sự sút kém của giáo dục hoàn toàn không xứng với tiềm năng của dân tộc, cả về tinh thần, trí tuệ, vật chất cũng như vận hội.
Từ 1966 đến nay, TƯ đã có nhiều nghị quyết đúng đắn mà chưa được thực hiện nghiêm túc, cho nên tuy chúng ta đã có nhiều cố gắng để vực giáo dục lên, song những căn bệnh chính của nó không hề giảm, trái lại ngày càng trầm trọng và kéo dài chưa biết đến bao giờ. Điều đó cho thấy nguyên nhân trì trệ không phải chỉ do những sai lầm cục bộ về điều hành quản lý (tuy phần trách nhiệm của bộ máy quản lý không nhỏ), mà chủ yếu là sai lầm từ gốc, sai lầm từ nhận thức, quan niệm, tư duy cơ bản. Nói vắn tắt, là sai lầm có tính chất hệ thống, sai lầm thiết kế, không thể khắc phục bằng những biện pháp điều chỉnh chắp vá, sai đâu sửa đó, càng sửa càng rối, mà cần phải cương quyết xây dựng lại từ gốc. Đó là mệnh lệnh cuộc sống, nếu chúng ta không muốn tụt hậu thêm nữa.
II. Con đường ra: cải cách, hiện đại hoá giáo dục
Muốn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước tất yếu phải bắt đầu bằng việc hiện đại hoá giáo dục, mà sự lạc hậu của nền giáo dục của chúng ta chung qui là ở chỗ nó rất xa lạ với kinh nghiệm lịch sử của chúng ta và kinh nghiệm giáo dục trên thế giới, trong lúc chúng ta đang cần hội nhập để phát triển. Vì vậy con đường ra khỏi những khó khăn là xây dựng lại giáo dục từ gốc để tiến tới một nền giáo dục phù hợp với truyền thống văn hoá của dân tộc và xu thế chung của thế giới, tạo điều kiện cho cuộc hội nhập thành công. Đó chính là nhiệm vụ hiện đại hoá giáo dục, với nội dung và phương hướng như sau.
1. Để xây dựng lại giáo dục từ gốc, trước hết cần thay đổi tư duy giáo dục, xác định lại quan niệm về mục tiêu, yêu cầu đào tạo và chức năng của nhà trường, từ đó mới thấy rõ cần thay đổi cung cách dạy và học, thay đổi nội dung, phương pháp, tổ chức quản lý giáo dục, như thế nào để đạt được mục tiêu đó. Nên rà soát lại để dứt khoát từ bỏ đào tạo những mẫu người chỉ biết ngoan ngoãn chấp hành, quen được dẫn dắt, bao cấp cả về tư duy và hành động, hơn là biết suy nghĩ độc lập và tự chịu trách nhiệm. Cần coi trọng rèn luyện các phẩm chất đạo đức cơ bản của con người hiện đại có cá tính nhưng bao dung, biết giao tiếp và hợp tác, biết làm việc có hiệu quả, có tư duy cởi mở với cái mới, thích dấn thân, không ngại đương đầu với thách thức, khó khăn, sẵn sàng chấp nhận mạo hiểm vì mục đích lớn, và nhất là trung thực và có đầu óc sáng tạo, là những đức tính tối cần thiết trong đời sống xã hội hiện đại. Đồng thời cần quan tâm đến giáo dục thẩm mỹ, giáo dục cảm xúc, đào tạo toàn diện con người có tâm hồn và thể chất khoẻ mạnh....
3. Công bằng, dân chủ là xu hướng của xã hội tiến bộ hiện đại, tuy cách hiểu và thực thi còn nhiều điểm khác nhau tuỳ mỗi nước. Trong giáo dục công bằng, dân chủ có nghĩa là bảo đảm cho mọi công dân quyền bình đẳng về cơ hội học tập và cơ hội thành đạt trong học vấn. Ngày nay, đó không chỉ là một nguyên tắc đạo đức mà còn là điều kiện để bảo đảm sự phát triển của xã hội. Chỉ khi có công bằng, dân chủ trong giáo dục, chỉ khi mọi người, dù giàu nghèo, sang hèn, đều có cơ hội học tập và thành đạt ngang nhau thì tiềm năng trí tuệ của xã hội mới được khai thác hết. Hiện nay ở nước ta con em các tỉnh miền núi, các vùng nông thôn, hay con em nhà nghèo ở thành thị, đi học đã khó mà học lên cao càng khó hơn. Với chế độ học tập buộc phải học thêm ngoài giờ rất nhiều, phải đóng góp vô vàn khoản tốn kém ngoài học phí, hàng năm phải mua sắm sách giáo khoa mới, với chế độ đánh giá và thi cử tốn kém như hiện nay, nhà trường của ta đã vô tình gạt ra ngoài cả một lớp trẻ thiếu may mắn vì trót sinh ra trong những gia đình nghèo hoặc không ở thành phố...
6. Trong khi nâng cao dân trí, mở rộng cửa nhà trường, kể cả đại học, cho đông đảo người dân, thì giáo dục không thể coi nhẹ nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng nhân tài. Trái lại, phải rất chú trọng tài năng, khắc phục bình quân và trung bình chủ nghĩa vốn là nhược điểm thường thấy ở các nước nghèo như ta. Trong thời đại kỹ thuật số hơn bao giờ hết, sự hưng thịnh của các quốc gia một phần rất quan trọng, nếu không nói quyết định, là do bởi có nhiều tài năng xuất chúng được nâng niu, nuôi dưỡng và được tạo điều kiện phát triển tột độ. Tài năng quan trọng cho xã hội hiện đại đến mức số lượng và chất lượng người tài được đào tạo là tiêu chuẩn hàng đầu để đánh giá hiệu quả giáo dục. Cho nên, hệ thống giáo dục, đặc biệt là đại học, phải có biện pháp hữu hiệu để đào tạo nhiều người tài, hơn nữa xã hội phải được tổ chức như thế nào để tài năng không tàn lụi sớm mà được khuyến khích phát triển ngày càng cao. Kinh nghiệm các nước phát triển cho thấy giáo dục càng công bằng, dân chủ, số người được học càng đông, thì trong số đông đó càng xuất hiện nhiều người tài xuất sắc. Vì vậy công bằng dân chủ trong giáo dục không những không mâu thuẫn với việc chú trọng tài năng, mà còn là cơ sở để đào tạo được nhiều nhân tài cho đất nước...''
Đọc bản kiến nghị này, người ta thấy từ dân chủ được dùng đến sáu lần (tác giả bài viết, HXĐ, in đậm và gạch dưới). Về mặt chính trị, người ta hiểu dân chủ là gì, tuy có nhiều cách hiểu khác nhau. Nhưng thế nào là một nền giáo dục dân chủ, như bản kiến nghị đã đưa ra nhưng không định nghĩa?
Thông thường, ngược lại dân chủ là độc tài, như vậy, theo tinh thần bản kiến nghị, hiện nay nền giáo dục Việt Nam không dân chủ vậy nó mang tính độc tài và tính độc tài đó thể hiện ở đâu và như thế nào trong nền giáo dục Việt nam?
Tìm mãi, tác giả bài viết mới lý giải được vấn nạn đó:
‘’Bản tin từ vnn.vn cho biết, theo quyết định mới nhất của Bộ Giáo dục và Đào tạo kí ngày 23.2.2004, sinh viên hệ chính quy các trường Cao đẳng-Đại học toàn quốc bắt buộc phải thi tốt nghiệp ba môn thuộc các phần: Khoa học Mác - Lê-nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh; Kiến thức cơ sở của ngành và Kiến thức chuyên môn. Các môn học của bộ môn khoa học Mác -Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh hiện đang được giảng dạy tại tất cả các trường ĐH, CĐ gồm: Triết học Mác - Lê- nin, Kinh tế Chính trị, Chủ nghĩa xã hội khoa học, Lịch sử Đảng, Tư tưởng Hồ Chí Minh. Quyết định này áp dụng cho sinh viên từ khoá tuyển sinh năm 2002 và sẽ có hiệu lực từ ngày 09.3.2004, tức sau 15 ngày kể từ ngày công bố.
Nếu chúng ta biết rằng ở Liên xô cũ, người ta từng có một chính sách bắt bất kì một sinh viên nào cũng phải bỏ ra 4 học kì để học bằng được các kì đại hội đảng cộng sản Liên xô, 2 kì để học triết học Mác-Lê, 1 kì học kinh tế chính trị Mác-Lê, 1 kì học chủ nghĩa cộng sản khoa học, và cuối năm thứ 5 thì thi tốt nghiệp cùng với môn chuyên ngành. Nếu chúng ta biết rằng kể từ năm 1989-1990 người ta đã bỏ kì thi tốt nghiệp với những môn đó và rồi gỡ bỏ dần các môn học phản lịch sử kia ra khỏi trường học. Nếu chúng ta biết rằng Liên xô khủng hoảng và tan rã không phải vì người ta không thi các môn học này mà vì người ta đã từng dạy bắt buộc hàng nửa thế kỉ những môn học đó, những môn học mà nội dung như là anh em sinh đôi với những môn học mà Bộ Giáo dục vừa bắt buộc con em chúng ta phải học và thi. Thì chúng ta đang chứng kiến một sự quay ngược bánh xe lịch sử ở Việt Nam, một cố gắng dẫn dắt thế hệ trẻ Việt nam hao phí thời gian và sức lực giẫm lên vết xe đổ của những ảo tưởng duy ý chí. Xã hội và quốc gia cần những chuyên gia và những công dân, không phải là những thư kí của một đảng phái chính trị, một hệ tư tưởng lỗi thời, một hình thức phân tích kinh tế và xã hội vô tích sự.’’ 7
Tóm lại, Việt Nam hiện nay vẫn còn ở trong tình trạng phức tạp về kinh tế và xã hội, văn hoá, giáo dục v.v...
Chúng ta có thể dựa trên mô hình của Kornai để giải thích phần nào tình trạng phức tạp về kinh tế. Việt Nam chỉ mới đi những bước đầu e dè của khối 1 : 'Quyền lực chính trị thân thiện với sở hữu tư nhân và thị trường' trong mô hình tư bản chủ nghĩa Kornai. Những khối 1,2,3 của mô hình xã hội chủ nghĩa vẫn còn đóng chốt tại vị trí cố hữu :
- Khối 1 : Quyền lực không chia sẻ của Đảng Marxist-Leninist
- Khối 2 : Hình thức sở hữu nhà nước và tựa-nhà nước (quasi-state) chiếm ưu thế
- Khối 3 : Điều phối quan liêu chiếm ưu thế
Như vậy, theo mô hình Kornai, Việt Nam vẫn còn lặn ngụp trong vũng lầy kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Cho dù Việt Nam có hoàn thành các khối khác của mô hình tư bản chủ nghĩa Kornai, cuộc chuyển đổi hệ thống (kinh tế) không phải là một chuyển đổi văn hoá, giáo dục, xã hội.... Muốn thế, phải đi vào một cuộc chuyển đổi xã hội mà những nét chính được trình bày sau đây: 8
‘’Muốn tổ chức một xã hội nhất thiết phải dựa vào hệ thống cơ sở lý luận hay nói theo kiểu hàn lâm đó là phải dựa vào lý thuyết tổ chức xã hội(LTTCXH), một lý thuyết khoa học, chặt chẽ, có thể hóa giải tất cả.
Các khái niệm cơ bản của LTTCXH:
- Mô hình xã hội: Khái niệm mô hình ở đây rộng hơn khái niệm mô hình hiểu theo lối thông thường là những gì có sẵn để làm khuôn mẫu. Mô hình càng rõ ràng cụ thể, được xây dựng chặt chẽ và khoa học, với những nguyên tắc đặc thù chi phối một cách hiệu quả, thì việc tổ chức xã hội càng hanh thông.
- Xã hội: Con người nói chung sống cùng với nhau trong các cộng đồng có tổ chức, với các bộ luật và tập quán kiểm soát cách họ đối xử với nhau.
- Tổ chức xã hội: Đây là khái niệm mới, thể hiện một cách hiểu khác về việc xây dựng một xã hội. Việc tổ chức một xã hội bao hàm tổ chức bộ máy vận hành, quản lý xã hội gồm các thực thể chính trị (các thiết chế chính thức); tổ chức các thiết chế phi chính thức; tổ chức các thực thể phi chính trị và tổ chức hoạt động của toàn bộ các thực thể này nói riêng cũng như của toàn xã hội nói chung. Để làm được điều này, lẽ tất nhiên LTTCXH phải xây dựng một hệ thống các định chế để làm cơ sở pháp lý, bao gồm Hiến pháp, các bộ luật, các quy định hành chính, các quy định trong quản lý trật tự xã hội, vệ sinh, an toàn thực phẩm, môi trường, văn hóa phẩm ... Các quy định thành văn và bất thành văn về ứng xử giữa con người với con người, con người với cộng đồng, con người với môi trường xã hội, môi trường tự nhiên.
- Môi trường xã hội: Môi trường vật thể và phi vật thể cùng toàn bộ hoạt động của con người. Nói cách khác, đó là toàn bộ cơ sở vật chất của xã hội: nhà cửa, công sở, đường giao thông, các phương tiện chuyên chở, hệ thống điện nước, thông tin liên lạc, nhà văn hóa, nhà bảo tàng, rạp hát, công viên, di tích lịch sử, di sản thiên nhiên, di sản văn hóa, bệnh viện, trường học ... và toàn bộ các giá trị văn hóa phi vật thể cùng các hoạt động của cộng đồng.
Các nhóm nguyên tắc cơ bản của LTTCXH:
- Nhóm nguyên tắc về quyền con người, quyền công dân.
- Nhóm nguyên tắc về tổ chức và vận hành bộ máy công quyền.
- Nhóm nguyên tắc ứng xử xã hội: ứng xử với cộng đồng, với môi trường xã hội, môi trường tự nhiên.
Các đặc trưng của LTTCXH:
- Khái quát: Lý thuyết TCXH có tính khái quát cao, quyết định hết thảy mọi vấn đề liên quan đến việc tổ chức một xã hội, từ chính trị - xã hội, kinh tế, văn hóa, pháp luật, giáo dục, môi trường...
- Chặt chẽ: Thiết kế một xã hội một cách đầy đủ, chi tiết; đồng thời quy định những ai xây dựng mô hình ấy và phải xây dựng như nào, vận hành xã hội ấy ra sao. Ðây là đặc trưng quan trọng quyết định sự khác nhau giữa LTTCXH và một bản thiết kế thông thường.
- Hệ thống: Một xã hội là thể phức hợp mà sự ràng buộc kết nối giữa các thành tố là theo một hệ thống chặt chẽ, đặc biệt là các thành tố thuộc về chính trị. Lý thuyết tổ chức xã hội là hệ thống cơ sở lý luận về cách thức tổ chức xã hội, nó có một hệ thống luật tổ chức các thực thể chính trị, kinh tế, văn hóa, nghệ thuật, thể thao ... và một tập hợp các bộ luật quản lý để các thực thể này dựa vào đó để vận hành.’’
Hoàng Xuân Đài
Paris 10/9/2004
Chú thích
1 J. Kornai: Con đường dẫn tới nền kinh tế thị trường, Hội Tin học Việt Nam 2001, NXB Văn hoá Thông tin (NXB VHTT) 2002. Tủ sách SOS2, Nguyễn Quang A dịch.
Tủ sách SOS2:
Các tác phẩm đã xuất bản và sắp xuất bản:
· J. Kornai: Con đường dẫn tới nền kinh tế thị trường, Hội Tin học Việt Nam 2001, NXB Văn hoá Thông tin (NXB VHTT) 2002.
· J. Kornai: Hệ thống Xã hội chủ nghĩa, NXB Văn hoá Thông tin 2002
· J. Kornai- K. Eggleston: Chăm sóc sức khoẻ cộng đồng, NXB VHTT 2002
· G. Soros: Giả kim thuật tài chính, sắp xuất bản
· H. de Soto: Sự bí ẩn của tư bản, sắp xuất bản (NXB Chính trị Quốc gia, 2004)
· J. E. Stiglitz: Chủ nghĩa xã hội đi về đâu?, sắp xuất bản
· F.A. Hayek: Con đường dẫn tới chế độ nông nô, sắp xuất bản
· G. Soros: Xã hội Mở, sắp xuất bản
· K. Popper: Sự khốn cùng của Chủ nghĩa lịch sử, sắp xuất bản
(Địa chỉ liên lạc: Tạp chí Tin học và Đời sống, 54 Hoàng Ngọc Phách Hà Nội [25/B7 Nam Thành Công],
thds@hn.vnn.vn hay
nqa@netnam.vn)
Những dữ kiện thông tin về dịch giả Nguyễn Quang A và tủ sách SOS2 đã được ban Biên Tập Talawas cho phép dùng (xin xem trao đổi điện thư sau đây). Tác giả bài viết xin trân trọng cám ơn ban Biên Tập Talawas và dịch giả Nguyễn Quang A.
Kính thưa quý vị trong ban biên tập Talawas,
Tôi đang dịch bài "What the change of system from Socialism to capitalism does and does not mean" của Janos Kornai trong Journal of economic Perspectives cho báo Viễn tượng Việt Nam xuất bản tại Paris, thì đọc trên website talawas bài phỏng vấn Nguyễn Quang A và bài dịch sách của Kornai. Tôi rất lấy làm vui thú và xin phép quý vị được dùng các tài liệu này để hoàn thành việc làm của tôi. Nếu quý vị cho phép, hiển nhiên tôi sẽ ghi rõ nguồn
http://www.talawas.org
Xin cám ơn quý vị
Hoàng Xuân Đài
Chào anh Hoàng Xuân Đài,
Vâng, mời anh cứ dùng tài liệu đã đăng trên talawas. Chúng tôi nghĩ rằng dịch giả Nguyễn Quang A cũng sẽ vui lòng đồng ý với việc này. Việc đăng tải free các tài liệu đó trên talawas là để phục vụ tất cả những ai quan tâm. Mong rằng chúng ta, trong khả naăg của mình, mọi người đóng góp một chút vào công cuộc làm giàu kiến thức và nhận thức cho người Việt Nam ở thời đại này.
trân trọng,
talawas
2 J. Kornai: Hệ thống Xã hội chủ nghĩa, NXB Văn hoá Thông tin 2002 .Tủ sách SOS2, Nguyễn Quang A dịch.
3 Kornai, J. 2000. "What the Change of System From Socialism to Capitalism Does and Does Not Mean" Journal of Economic Perspectives. Vol. 14, No.1, Winter 2000. Tài liệu lấy từ website UNDP Viet Nam (
http://www.undp.org.vn/undp/fact/kornai/index.htm)
4 Các thuật ngữ tiếng Việt trong bài này lấy từ tác phẩm "Hệ thống xã hội chủ nghĩa. Chính trị kinh tế học phê phán và Con đường dẫn đến kinh tế thị trường" của János Kornai, nhà kinh tế học người Hung, giáo sư Harvard (Mỹ), do Nguyễn Quang A dịch, Nhà xuất bản Văn hoá Thông tin, Hà Nội, vừa ra mắt đã lập tức được coi là những cuốn sách quan trọng nhất năm 2002 ở Việt Nam. Để bạn đọc có thể dễ dàng tiếp cận với hơn 1000 trang sách ấy, Talawas đã giới thiệu trên mạng bài viết của dịch giả Nguyễn Quang A vào ngày 27/11/2002.
Nguyễn Quang A dịch các thuật ngữ rất hay và chính xác: chẳng hạn dịch "unemployment on the job" của Kornai ra " Thất nghiệp có chỗ làm" thì tuyệt, mô tả đúng thực trạng của nền kinh tế bao cấp, nhân viên được trả lương để không làm gì cả.
Đó cũng là thực trạng mà Giáo sư Hoàng Tụy, nguyên Viện trưởng Viện toán học Hà Nội, cho biết qua bài phỏng vấn "Giải pháp cứu ngành giáo dục", do Tạp chí Ngày Nay (Việt Nam) thực hiện, đăng trên website Talawas ngày 17.11.2003
"Chứ còn đại bộ phận chúng ta chỉ làm cho nhà nước từ 3-4 giờ thôi, thời gian còn lại có ngồi đây thì cũng chỉ suy nghĩ chuyện của mình hoặc đi làm chuyện khác."
5 Sen, Amartya. 2000. Development as Freedom. New York: Anchor Books
6 Vietnam' s Economy: The good Pupil (Kinh Tế Việt Nam: Người Học Trò Học Giỏi) ( Trần Bình Nam dịch, June 4, 2004 ), The Economist số ra ngày 8-14 tháng 5 năm 2004.
7 Quốc Việt ,Về Quyết định của Bộ Giáo dục và Đào tạo ngày 23.2.2004,
http://www.talawas.org )
8 Nguyễn Thục Nhi, Lý thuyết tổ chức xã hội,
http://www.talawas.org