và Bình-đẳng-giới tại Việt Nam thời Đổi mới
[right]Hoàng Xuân Đài[/right]
Một xin rửa sạch nước thù,
Hai xin đem lại nghiệp xưa họ Hùng.
Ba kẻo oan ức lòng chồng.
Bốn xin vẻn vẹn sở công lệnh này!
(Thiên nam ngữ lục)
Hai xin đem lại nghiệp xưa họ Hùng.
Ba kẻo oan ức lòng chồng.
Bốn xin vẻn vẹn sở công lệnh này!
(Thiên nam ngữ lục)
Tóm tắt.
Sau khi trình bày sơ lược hai khái niệm giới (gender) và giới-tính (sex) dưới cái nhìn xã hội học, tác giả nhắc lại lịch sử Ngày Phụ nữ Quốc tế và tình hình bình-đẳng-giới tại Việt Nam thời Đổi mới.
1/ Giới (gender, genre) và giới-tính (sex, sexe).
Giới là một khái niệm khá mới trong khoa xã hội học và y học mà chúng ta có thể lãnh hội được ý nghĩa qua hai câu trích dẫn sau đây:
● Giới-tính là điều ta thấy, giới là điều ta cảm thấy (Le sexe, c'est ce que l'on voit, le genre, c'est ce que l'on ressent. Dr Harry Benjamin [1])
● Giới, là điều ta có thể gọi là "giới-tính xã-hội" (Le genre, c'est ce que l'on pourrait appeler le « sexe social ».
Christine Delphy [2] )
Khái niệm giới (gender) đã được khai sinh trong tiếng Anh vì hai lý do.
Một là, chữ sex của tiếng Anh trên mặt ngữ nghĩa học giới hạn hơn chữ sexe của tiếng Pháp, khiến cho sự trình bày chỗ đứng của đàn ông và đàn bà trong xã hội trở nên khó khăn.
Hai là, các nhà phụ-nữ-quyền (feminist) muốn phân biệt giới-tính sinh học với giới để đặt lại vấn đề cưỡng bức áp đặt bởi giới.
Do đó chữ giới-tính được dùng để qui chiếu về những khác biệt về thể xác giữa đàn ông và đàn bà trong khi đó giới quy chiếu về những khác biệt không mang tính sinh học chẳng hạn như tâm lý, tâm thần, xã hội, kinh tế, dân số học, chính trị ...giữa đàn ông và đàn bà.
"Giới-tính xã-hội" là căn cước được xây dựng bởi hoàn cảnh xã hội của những cá nhân, nghĩa là các "nam tính" hoặc "nữ tính", không phải là những dữ kiện "thiên nhiên", mà là hậu quả của những cơ chế xây dựng và sản xuất xã hội vô cùng mạnh mẽ xuyên qua giáo dục. Simone de Beauvoir [3] cho rằng "Người ta không sinh ra là đàn bà, người ta trở thành" đàn bà dưới ảnh hưởng giáo dục phụ quyền chế.
Bourdieu cho rằng điều đó cũng đúng cho đàn ông "Người ta không sinh ra là đàn ông, người ta trở thành", và xuyên qua cả một nền giáo dục, tạo nên bởi nghi thức hội nhập của chuẩn nam giới, mà căn cước đàn ông đã được đẽo thành hình, và người đàn ông đã bảo đảm được chức năng chế ngự trong xã hội [4].
Nền giáo dục này không những có tính kết cấu mà còn có tính trừng phạt : sự lệch lạc trong những vai trò giới (nghĩa là sự không ăn khớp giữa sự trưng bày giới của một người và sự trưng bày giới đòi hỏi của một người cùng giới-tính) không được dung thứ và bị xã hội trừng phạt.
Nhưng xã hội đã có chiều hướng thay đổi, người ta nhìn những liên hệ của những người cùng giới-tính với một con mắt bao dung hơn, một vài nước trên thế giới chấp nhận các hôn nhân hoặc sống chung của những người này.
Bình-đẳng-giới là phản ứng chống đối lại chủ-nghĩa-giới-tính (sexism), được định nghĩa là sự đối xử phân biệt dựa trên giới-tính (sex), bao gồm những hệ tư tưởng, những truyền thống và những cách xử sự hoặc thái độ, qui kết sự khác biệt về cương vị hay phẩm cách giữa đàn ông và đàn bà.
Có thể xác định ba mức độ của chủ-nghĩa-giới-tính:
● Lập luận cho rằng giới-tính (sex) này cao hơn giới-tính (sex) kia.
● Lập luận cho rằng đàn ông và đàn bà rất khác nhau và điều này phải được phản ánh một cách mạnh mẽ trong xã hội
● Lập luận cho rằng cho rằng đàn ông và đàn bà hơi khác nhau (hiển nhiên trừ những khác nhau trên cơ thể) và điều này phần nào phải được phản ánh trong xã hội.
Cuộc tranh đấu chống lại các hệ tư tưởng, những truyền thống và những cách xử sự hoặc thái độ của chủ nghĩa giới-tính là nguồn gốc của cuộc đấu tranh cho phụ-nữ-quyền (feminism).
Cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa giới-tính khẳng định rằng con người có thể từ chối tổ chức theo thứ bậc của giới (gender) và giới-tính (sex); nó khẳng định sự hiện hữu quyền phân biệt cá thể và đặt lại vấn đề tổ chức xã hội và văn hoá của mỗi giới, vì những tổ chức này đã thường dẫn đến chủ-nghĩa-giới-tính.
2/ Ngày Phụ nữ Quốc tế
Như tất cả những ngày tháng có tính biểu tượng, ngày Phụ nữ Quốc tế không có một nguồn gốc từ một dữ kiện lịch sử độc nhất. Một mặt, nó là kết tinh của một quá trình dài và rộng lớn của tranh đấu, của đòi hỏi, yêu sách và tranh luận, mặt khác nó tượng trưng cuộc trường chinh lặng lẽ của hàng triệu phụ nữ trên thế giới.
Sự quy chiếu có tính lịch sử chính của ngày Ngày Phụ nữ Quốc tế bắt nguồn từ những cuộc đình công của các công nhân phụ nữ phát động vào những năm 1857 và 1911 tại New York ủng hộ các yêu sách tăng lương và phản đối các điều kiện làm việc quá tồi tệ của các nữ công nhân nghành dệt. Một biến cố đặc biệt đã đánh dấu mạnh mẽ những cuộc biểu tình này: ngày 25/3/1911, một nhóm nữ công nhân biểu tình trong một hãng dệt tại New York đã chết trong một cuộc hoả hoạn. Họ không chạy thoát được vì các cửa ngõ đã bị đóng để công nhân không được ra về trước khi hết giờ làm việc.
Trước sự lớn mạnh về số lượng và chất lượng của phong trào phụ nữ trên thế giới, ngày 26 và 27 tháng 8 năm 1910, đại hội lần thứ 2 của phụ nữ thế giới đã được triệu tập ở Copenhague (thủ đô Ðan Mạch), với sự tham dự của 100 nữ đại biểu của 17 nước, đã quyết định lấy ngày 8/3 làm ngày quốc tế phụ nữ với mục đích đấu tranh đòi các quyền lợi của phụ nữ và trẻ em, ngày làm việc 8 giờ, công việc ngang nhau tiền lương ngang nhau, bảo vệ bà mẹ và trẻ em.
Một quy chiếu khác có tính toán dính dáng đến ngày 8/3 và sự tham gia của những nữ công nhân vào cuộc các mạng Nga. Ngày 23/2/1917 theo lịch Nga, trùng với ngày 8/3 của lịch Grê-goa các nữ công nhân Nga đã xuống đường gây ra một cuộc tổng đình công và sau đó đã tham gia vào những hành động cách mạng mở đầu cuộc cách mạng Nga.
Vào năm 1977, hai năm sau Năm Phụ nữ Quốc tế, Liên Hiệp Quốc đã chấp thuận một nghị quyết mời tất cả các nước trên thế giới dành một ngày để biểu dương quyền phụ nữ và hòa bình thế giới. Ngày 8/3 đã được chọn và đã được nhiều nước trên thế giới chấp nhận.
Từ đó đến nay, ngày 8/3 trở thành ngày hội của phụ nữ thế giới, đoàn kết đấu tranh để tự giải phóng, thực hiện quyền nam nữ bình đẳng và cũng từ đó, phụ nữ tiến bộ khắp năm châu tổ chức ngày 8/3 với những nội dung và hình thức phong phú.
Nội dung ngày quốc tế phụ nữ 8/3 không chỉ dừng lại ở quyền bình đẳng mà được mở rộng thêm khái niệm mới "phát triển giới". Vấn đề phụ nữ đã được đông đảo các quốc gia trên thế giới nhìn nhận và đánh giá một cách đầy đủ trên những khía cạnh khác nhau thông qua một loạt các hội nghị thế giới.
Các hội nghị thế giới về phụ nữ do Liên Hiệp Quốc đứng ra tổ chức là những sự kiện quốc tế quan trọng đối với đời sống chính trị của toàn thế giới đặc biệt đối với phụ nữ. Vì lẽ đó, vấn đề giải phóng phụ nữ, vì sự tiến bộ của phụ nữ là một vấn đề toàn cầu.
Hội nghị Bắc Kinh (Trung Quốc) năm 1995 có mục đích kiểm lại việc thực hiện "Chiến lược nhìn về phía trước vì sự tiến bộ của phụ nữ" đã được đề ra tại hội nghị Nairobi và công ước Liên Hiệp Quốc "Xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ" đồng thời thông qua "Cương lĩnh hành động vì sự tiến bộ của phụ nữ toàn cầu đến năm 2000".
"Tuyên bố Bắc Kinh" và "Cương lĩnh hành động vì sự tiến bộ của phụ nữ toàn cầu đến năm 2000" là hai văn kiện quan trọng nhất của hội nghị Bắc Kinh. Hai văn kiện này một mặt phác họa những trở ngại trên con đường phấn đấu cho sự bình đẳng của nữ giới bên cạnh nam giới, mặt khác khẳng định những cam kết và sự quyết tâm của các chính phủ, các tổ chức quốc tế bằng mọi biện pháp tiến tới mục tiêu Bình đẳng-Phát triển-Hòa bình vì sự tiến bộ của phụ nữ.
Tại Việt Nam, ngày 8/3 là dịp để biểu lộ não trạng ăn hiếp đàn bà (phallocratie [5]):
" Hôm nay mùng tám tháng ba
Tôi giặt hộ bà chiếc áo của tôi
Nếu bà còn nói lôi thôi
Tôi trả chiếc áo của tôi cho bà..."
hoặc sự châm biếm của cái nhìn dưới góc độ đàn bà-vật (femme-objet):
"Hôm nay mùng tám tháng ba
Chị em phụ nữ đi ra đi vào
Phái nam đon đả đón chào
Hoa nào cũng đẹp mặt nào cũng tươi"
3/ Bình-đẳng-giới tại Việt Nam thời Đổi mới
Theo luật cổ và tục lệ, gia đình cổ Việt Nam được xây dựng trên cơ sở phương thức ruộng đất và lao động nông nghiệp là nền tảng kinh tế và là điều kiện vật chất của việc duy trì và phát triển gia đình.
Dưới thời Lê, có sự hòa hợp giữa luật viết và tục lệ trong lĩnh vực tổ chức và quản lý gia đình: quyền lực của chủ gia đình nằm trong tay cả cha và mẹ.
Dưới thời Nguyễn, luật viết xây dựng khuôn mẫu gia đình theo mô hình gia đình phụ quyền Trung Quốc: toàn bộ quyền lực của chủ gia đình nằm trong tay người cha; nếu người cha chết, thì người mẹ góa không tái giá giữ vị trí chủ gia đình dưới sự giám sát của gia tộc; nếu cả cha và mẹ đều chết, thì vai trò chủ gia đình do con trai trưởng đảm nhận.
Người Việt Nam thời kỳ thuộc địa vẫn sống trong các đại gia đình phụ quyền và trên các mảnh ruộng mà các đại gia đình có trách nhiệm giữ gìn để truyền đời. Mô hình đại gia đình vẫn được ghi nhận trong pháp luật thuộc địa như là mô hình kiểu mẫu.
" ...Luật hiện đại, mô hình gia đình Việt Nam có những thay đổi. Ðại gia đình bị loại ra khỏi luật viết; thay vào đó là mô hình gia đình hộ gồm có vợ chồng và các con. Mô hình gia đình hộ được chính thức thừa nhận tại Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 cùng với nguyên tắc bình đẳng giữa nam và nữ về mọi phương diện. Cũng do hiệu lực của Luật này, chế độ phụ quyền được thay thế bằng chế độ hợp tác giữa Nhà nước và cha mẹ trong việc nuôi dạy con. Ngoài ra, Luật nhấn mạnh tính chất nghĩa vụ (không phải tính chất quyền) của việc nuôi dạy con; quan hệ giữa xã hội và gia đình được quan tâm điều chỉnh; quyền tự do cá nhân trong quan hệ gia đình được coi trọng.
Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 tiếp tục coi gia đình hộ như là mô hình chính thức trong xã hội xã hội chủ nghĩa và tiếp tục hoàn thiện hệ thống quy tắc liên quan đến nghĩa vụ của cha mẹ đối với con.
Tuy nhiên, khác với Luật năm 1959, Luật năm 1986 coi quan hệ nghĩa vụ giữa cha mẹ và con là quan hệ nghĩa vụ hỗ tương: con có nghĩa vụ kính trọng, chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ, lắng nghe những lời khuyên bảo của cha mẹ (Ðiều 21); con từ 16 tuổi trở lên còn ở chung với cha mẹ có nghĩa vụ chăm lo đời sống chung của gia đình; nếu có thu nhập riêng, thì phải đóng góp vào nhu cầu của gia đình (Ðiều 23).
Luật cũng có nhắc đến quan hệ giữa ông bà và cháu (Ðiều 27), nhưng không coi họ như các thành viên của cùng một gia đình hộ: quan hệ ông bà và cháu được luật chi phối trong hoàn cảnh bi kịch: cháu không còn cha mẹ.
Cũng trong hoàn cảnh đó mà luật quan tâm điều chỉnh quan hệ anh-chị-em...
... Việc áp dụng chính sách đổi mới đã thúc đẩy quá trình tích lũy của cải trong khu vực tư nhân. Theo một xu hướng tự nhiên, một khi việc thực hiện một kế hoạch đầu tư nào đó trong các lĩnh vực nông nghiệp, tiểu công nghiệp, dịch vụ vượt quá khả năng của một cá nhân, thì những người đầu tiên mà cá nhân muốn kêu gọi sự hợp tác chính là các thành viên trong gia đình. Kế hoạch đầu tư càng quan trọng, các thành viên của gia đình được tập họp càng đông. Sự gắn bó về kinh tế dẫn đến sự gắn bó về tình cảm và gia đình truyền thống dần dần được khôi phục, với quy mô được xác định tùy theo quy mô của hoạt động kinh tế chung của các thành viên. Gia đình có nhiều thành viên có tổ chức phức tạp hơn gia đình ít thành viên và các mối quan hệ nội bộ cũng đa dạng hơn. Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 tỏ ra không còn đủ sức đảm đương chức năng cơ sở pháp lý của gia đình trong thời kỳ đổi mới; trong khi đó, tục lệ ghi nhận sự phát triển tự phát của những giá trị còn chưa được luật viết quan tâm đúng mức, nhưng có tác dụng tốt trong việc đặt nền móng cho sự phát triển của gia đình nhiều thế hệ: nghĩa vợ chồng, quyền cha mẹ, chữ hiếu.
Ngày nay, người làm luật chính thức thừa nhận chủ trương khuyến khích sự nhân rộng mô hình gia đình nhiều thế hệ đồng thời cam kết tạo điều kiện thuận lợi cho việc duy trì và phát triển mô hình đó: Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện để các thế hệ trong gia đình chăm sóc, giúp đỡ nhau nhằm giữ gìn và phát huy truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam (Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Ðiều 49 khoản 2)" [6] .
Ngoài ra, quyền sở hữu ruộng đất là một đề tài nóng bỏng tại Việt Nam. Luật ruộng đất tháng 11 năm 2003 bắt buộc giấy chứng nhận sở hữu phải mang tên chồng và vợ, nếu ruộng đất thuộc cả hai ngườì. Đó là một bước tiến quan trọng trong tiến trình tiến tới bình-đẳng-giới, nhưng việc áp dụng luật này theo các chuyên gia quốc tế (United Nations Volunteers, UNV) vẫn còn là một thách đố lớn, nhất là tại nông thôn. Theo các con số của UNV, 83% sở hữu ruộng đất mang tên chồng, 11% mang tên vợ, 3% mang tên cả vợ lẫn chồng, 3% mang tên người độc thân.
Theo sự đánh giá của Chương trình Phát triển của Liên Hiệp Quốc tại Việt Nam (UNDP Việt Nam), ngày nay, nhiều phụ nữ Việt Nam dường như sống ở hai thế giới khác nhau. Trong công việc họ là những người phụ nữ hiện đại, song vẫn bị đối xử như những người ở vị trí thấp kém hơn. Những quan niệm truyền thống về vị trí, vai trò và trách nhiệm của người phụ nữ tiếp tục ảnh hưởng lớn tới chất lượng cuộc sống của phụ nữ và trẻ em gái cũng như cản trở nỗ lực tiến tới bình-đẳng-giới thực sự ở Việt Nam.
● Phụ nữ chiếm 52% lực lượng lao động ở Việt Nam. Phụ nữ có thời gian làm việc nhiều hơn, ngủ ít hơn và được trả lương thấp hơn so với nam giới, không những thế họ còn tiếp tục phải đối mặt với những vấn đề gây cản trở khả năng tiếp cận bình đẳng với các cơ hội việc làm, các nhân tố sản xuất như đất đai, tín dụng cũng như lương và các điều kiện làm việc.
Một ví dụ điển hình là ở các vùng nông thôn phụ nữ chỉ chiếm 25% trong số những người tham gia các chương trình tập huấn về chăn nuôi. Trình độ công nghệ thấp, khả năng tiếp cận với tín dụng và đào tạo bị hạn chế cũng như trách nhiệm nội trợ và chăm nom gia đình ảnh hưởng nghiêm trọng tới khả năng thành đạt của phụ nữ.
● Chế độ hưu trí đối với phụ nữ cũng là một vấn đề đáng quan tâm vì tuổi nghỉ hưu của phụ nữ ít hơn 5 năm so với nam giới, và điều đó hạn chế khả năng được hưởng đầy đủ các tiêu chuẩn trợ cấp hưu trí của họ. Vì phụ nữ có tuổi thọ lớn hơn nam giới nên mức sống của họ sẽ giảm đi khi tuổi càng cao nếu lương hưu của họ không được điều chỉnh theo tỷ lệ lạm phát một cách thoả đáng.
● Nam giới nắm giữ hầu hết các vị trí lãnh đạo trong cơ quan, mặc dù lao động nữ chiếm đa số. Phụ nữ Việt Nam điển hình, vừa làm tròn bổn phận truyền thống của người mẹ và người vợ trong gia đình lại vừa lao động kiếm sống. Họ không hề thắc mắc gì về những trách nhiệm đó. Kết quả nghiên cứu cho thấy phụ nữ nông thôn Việt Nam làm việc nhiều hơn nam giới từ 6 đến 8 tiếng mỗi ngày. Phụ nữ còn là người chăm sóc chính đối với hầu hết trẻ em và người già.
● Định kiến đối với phụ nữ đặc biệt sâu sắc ở các vùng nông thôn. Một phụ nữ H' Mông nói: "Con trai vẫn ở với bố mẹ sau khi cưới và thế là mang thêm người về cho gia đình. Con gái giống như chim. Bố mẹ nuôi con gái lớn lên để rồi chúng bay đi mất". Tư tưởng này có thể lý giải tại sao số trẻ em gái học tiểu học lại thấp hơn nhiều so với trẻ em trai trong cộng đồng dân tộc H' Mông ở Baho.
● Tình trạng phụ nữ không được tiếp cận với các nguồn lực như tín dụng là vấn đề chính cản trở sự tham gia đóng góp của họ vào nền kinh tế đất nước. Việt Nam đang tiến tới đảm bảo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên của mọi thành viên trong gia đình, song, theo một báo cáo mới đây của Liên Hiệp Quốc khả năng tiếp cận với dịch vụ tín dụng chính thức của phụ nữ vẫn ít hơn nam giới. Hai phần ba số người vay vốn là nam giới vì phụ nữ phải trông cậy vào những cơ sở cho vay vốn tư nhân. Do khả năng tiếp cận với tín dụng hạn chế nên các gia đình do phụ nữ làm chủ hộ có ít cơ hội mở các hoạt động kinh doanh buôn bán nhỏ.
● Mặc dù tỷ lệ đại biểu nữ trong Quốc hội Việt Nam là 27%, một trong những nước có tỷ lệ đại biểu quốc hội nữ cao nhất trên thế giới, song vẫn cần tăng thêm tỷ lệ nữ trong các cơ quan Nhà nước và chính quyền cấp tỉnh. Báo cáo mới đây của Liên Hiệp Quốc, về tiến độ thực hiện các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (MDG: Millennium Development Goals) cho thấy mức chênh lệch đáng kể về tỷ lệ đại biểu nữ trong Hội đồng Nhân dân (từ 7% đến 33%) giữa 61 tỉnh, thành phố của Việt Nam. Mức chênh lệch trong Uỷ ban Nhân dân còn lớn hơn (trung bình tỷ lệ nữ chỉ có 6,4% trong khi tỷ lệ nam là 93,6%).
● Bài học thế giới cho thấy rõ rằng những quốc gia quan tâm thúc đẩy các quyền của phụ nữ và đảm bảo khả năng tiếp cận bình đẳng với các nguồn lực, kể cả giáo dục, là những nước có tốc độ tăng trưởng nhanh hơn cũng như có tỷ lệ nghèo đói thấp hơn và mức độ phát triển con người cao hơn. Cần phải tiến hành các biện pháp nhằm thu hẹp khoảng cách hiện nay giữa phụ nữ và nam giới về giáo dục, cơ hội việc làm và quyền tiếp cận với đất đai, tín dụng. Quan niệm tích cực về giá trị và vị thế của phụ nữ phải là cơ sở cho mọi nỗ lực về bình-đẳng-giới.
Thực trạng giáo dục Việt Nam của nữ giới đi vào tình trạng báo động. Theo những thống kê chính thức của bộ Giáo Dục và Đào tạo Việt Nam, số học sinh nữ và tỷ lệ số học sinh nữ /số học sinh nam bậc tiểu học càng ngày càng giảm:
BIẾN THIÊN SỐ HỌC SINH TIỂU HỌC
T.S.H.S. = Tổng số học sinh
S.H.S.N. = Số học sinh nữ
Nguồn : Bộ Giáo Dục và Đào tạo Việt Nam
T.S.H.S. = Tổng số học sinh
S.H.S.N. = Số học sinh nữ
Nguồn : Bộ Giáo Dục và Đào tạo Việt Nam
BIẾN THIÊN TỶ LỆ HỌC SINH NỮ / TỔNG SỐ HỌC SINH TIỂU HỌC
T.L. = Tỷ lệ (%)
Nguồn : Bộ Giáo Dục và Đào tạo Việt Nam
[size=18]T.L. = Tỷ lệ (%)
Nguồn : Bộ Giáo Dục và Đào tạo Việt Nam